XI. PHẨM
HIỂN ĐỨC.
Phần đầu
quyển 572, Hội thứ VI, ĐBN:
(Tương đương với phẩm 10: Thuật Đức, quyển 10, TTVBN)
Tóm lược:
Quyển thứ 572
Bấy giờ, đại Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi
(Văn Thù Sư Lợi) từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay
cung kính bạch:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát trải
qua bao nhiêu kiếp hành sâu Bát nhã Ba la mật, cúng dường bao nhiêu đức Phật mà
có thể thưa hỏi, hiển dương khen ngợi về Bát Nhã thâm sâu như Như Lai đã thuyết
cho Thiên vương Tối Thắng vậy?
Phật bảo đại Bồ tát Mạn Thù Thất
Lợi:
- Thiện nam tử! Việc đó chẳng thể
nghĩ bàn. Nếu chẳng phải vô lượng trăm
ngàn đại kiếp nhóm hợp công hạnh, trồng
nhiều căn lành, thời chẳng được nghe công đức danh tự Bát Nhã sâu thẳm.
Thiện nam tử! Số cát sông Hằng trong
hằng hà sa số thế giới khắp mười phương còn có thể biết được, chứ đại Bồ tát
này hành Bát nhã Ba la mật đã trải qua bao nhiêu số kiếp, cúng dường bao nhiêu
vị Phật đều không thể biết được.
Thiện nam tử! Trong quá khứ vô
lượng, vô biên vô số kiếp khó nghĩ bàn, có đức Phật ra đời tên là Đa Văn đầy đủ mười hiệu, kiếp tên là
Tăng Thượng, nước tên là Nhật Quang. Như Lai Đa Văn thuyết pháp môn thanh tịnh cho các đại Bồ tát:
“Thiện nam tử! Ông phải siêng năng
tu các pháp lành chẳng tiếc thân mạng”.
Khi đó, trong hội kia, có một vị Bồ
tát tên là Tinh Tấn Lực, liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Ngài, kéo áo che vai trái, gối phải quì sát đất,
chắp tay cung kính thưa Phật:
- Đức Thế Tôn đã nói: Ông nên siêng
năng tinh tấn tu các pháp lành chẳng tiếc thân mạng. Như con hiểu nghĩa Phật đã
nói đó, các đại Bồ tát lẽ ra “không nên sớm” thành Vô thượng Chính đẳng Chính
giác. Vì sao? Nếu các Bồ tát siêng tu các pháp (sớm thành tựu mau chứng đắc)
thì không thể trụ trong sanh tử lâu dài để làm lợi lạc cho hữu tình. Các đại Bồ
tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, chấm dứt phiền não, trụ lâu trong sanh tử,
quyết chẳng phải vì bản thân để mau chứng Niết bàn, mà chỉ vì lợi lạc cho các
hữu tình. Bồ tát lấy sanh tử làm vui, chẳng lấy Niết bàn làm vui. Vì sao? Vì
các đại Bồ tát lấy sự giáo hóa hữu tình làm vui vậy. Nghĩa là tùy theo chỗ ưa
muốn mà phương tiện khéo léo truyền trao pháp môn giúp họ được an lạc. Nếu
siêng tu pháp lành thì mau hết phiền não, không thể làm lợi ích an vui cho tất
cả hữu tình. Thế nên Bồ tát quán sát sanh tử nhiều sự khổ não, khởi tâm đại bi
chẳng bỏ hữu tình, thành tựu bản nguyện.
Bạch Thế
Tôn! Các đại Bồ tát đủ sức phương tiện ở lâu trong sanh tử, thấy được vô lượng
vô biên đức Như Lai, nghe và lãnh thọ vô lượng vô biên chánh pháp, giáo hóa và
dẫn dắt vô lượng vô biên hữu tình. Thế nên, vì việc này mà Bồ tát chẳng nhàm
chán sanh tử, không ưa thích Niết bàn.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát khi
quán sanh tử mà khởi lên sự chán sợ, ưa vui Niết bàn thì sẽ rơi vào phi đạo, không thể làm lợi lạc
cho tất cả hữu tình, không thông suốt cảnh giới mầu nhiệm của Như Lai.
Thế nào là
phi đạo?
Là ưa Thanh văn và bậc Độc giác, đối
với các loài hữu tình không có tâm đại bi. Vì sao? Vì đạo mà Thanh văn và Độc
giác hành trì chẳng phải đạo của các đại Bồ tát. Vì sao? Vì Thanh văn và Độc
giác chán sợ sanh tử, ưa vui với Niết bàn, không thể đầy đủ phước đức trí tuệ,
vì nghĩa này nên chẳng phải đạo Bồ tát.
Khi ấy, Phật Đa Văn liền khen ngợi
Tinh Tấn Lực:
- Hay thay!! Như lời ông nói, các
đại Bồ tát nên tu tự hành chớ tu tập theo phi đạo.
(Thế nào là Bồ tát tu đạo tự hành?)
Tinh Tấn Lực thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đại
Bồ tát đã tu đạo tự hành?
Phật Đa Văn nói:
- Bồ tát thành tựu tất cả phước tuệ,
vì sức đại bi không bỏ hữu tình, xa lìa Thanh văn và bậc Độc giác, được đắc Vô
sanh nhẫn nhưng chẳng bỏ ba cõi, không hy vọng sanh trưởng căn lành, dùng
phương tiện thiện xảo tu hành tất cả Ba la mật. Dùng sức trí tuệ, không có tâm
phân biệt, sanh trưởng căn lành, thành tựu tận trí được vô lượng công đức. Dù
biết các pháp không có một pháp nào tự nó có thể sanh, chỉ phương tiện hiện
sanh. Dù biết hữu tình không có một hữu tình nào là thật có mà vẫn phương tiện
giáo hóa, biết tất cả pháp đều lìa tự tánh. Quán các cõi Phật đều như hư không
nhưng thường dùng phương tiện khéo léo nghiêm tịnh cõi Phật. Biết tất cả pháp
thân Phật không có hình tướng nhưng phương tiện thị hiện tướng hảo trang
nghiêm. Tùy theo tâm các hữu tình ưa thích điều gì liền phương tiện trao cho
họ. Thân tâm Bồ tát tuy thường vắng lặng nhưng vẫn thuyết pháp giáo hóa hữu
tình, cũng dùng phương tiện thiện xảo xa lìa ồn náo, tu các thiền định, biết tự
tánh Không nhưng thông suốt được tất cả trí tuệ sâu xa, dùng phương tiện thuyết
pháp cho người khác, không chứng quả Thanh văn, Độc giác thừa, mà siêng năng
cầu chứng được quả Giải thoát của Như Lai, chẳng
bỏ tất cả đạo hạnh của Bồ tát. Thiện nam tử! Đây gọi là Bồ tát đã tự hành
đạo của mình”. (Q.572, ĐBN)
Bồ tát Tấn Lực đã từng nghe Đa Văn
Thế Tôn nói về cảnh giới chưa từng có mà Bồ tát thực hành, nên Bồ tát Tấn Lực
bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có, như con hiểu ý
lời Phật nói là: Bồ tát đầy đủ phương tiện thiện xảo, quán tất cả pháp đều là
đạo cả. Ví như hư không dung chứa các sắc. Như vậy, Bồ tát đầy đủ phương tiện
lớn, sự hành đạo thâu nhiếp tất cả pháp. Lại như hư không, tất cả cỏ cây hoa
quả đều nhờ đó mà sanh trưởng. Như vậy, các vật đối với cõi hư không không thể
làm nhiễm hoặc tịnh, chẳng làm giận làm vui. Đại Bồ tát này đầy đủ phương tiện
lớn là Bát Nhã thâm sâu, nên quán tất cả pháp đều là đạo, nghĩa là pháp của
phàm phu hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ tát, hoặc pháp
Như Lai. Vì sao? Vì các Bồ tát này đã thông suốt rồi. Ví như lửa mạnh, nếu gặp
cỏ cây tất không lùi lại. Các cây cỏ này đều thuận theo, càng làm cho ngọn lửa
cháy mạnh thêm. Cũng vậy các pháp hoàn toàn thuận theo đạo của Bồ tát nên gọi
là Bồ tát đạo. Thí như kim cương, thể chất nó rắn chắc, dao không thể chặt gãy,
lửa không thể đốt cháy, nước không thể làm tan rả, độc không thể hại. Cũng vậy,
với phương tiện trí tuệ của Bồ tát, Thanh văn, Độc giác, các ngoại đạo, và tất
cả phiền não không thể nào làm tổn hoại được. Như ngọc lọc được nước, nếu ở
trong nước đục tức làm cho trong. Ngọc Bát Nhã của Bồ tát có thể làm cho tất cả
phiền não của hữu tình đều được thanh tịnh. Ví như thuốc tốt Diệu bảo thần châu
không thể ở chung với chất độc, có khả năng làm tiêu hết các chất độc. Cũng
vậy, Bồ tát hành phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật chẳng chung cùng
với tất cả phiền não, mà có thể đoạn diệt tất cả phiền não. Nhân duyên các pháp
như vậy đều là đạo của đại Bồ tát”.
Mạn Thù Thất Lợi! Khi Tinh Tấn Lực
nói về pháp này, tám vạn Bồ tát đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Hai trăm Bồ tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Mạn Thù Thất Lợi! Tinh Tấn Lực kia chính
là Thiên vương Tối Thắng hôm nay.
(Làm thế nào Bồ tát hành sâu Bát Nhã được sức kiên cố
hộ trì Chánh Pháp?)
Bấy giờ, Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi lại
bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để các
đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật được
sức kiên cố, hộ trì chánh pháp?
Phật bảo Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi:
- Thiện nam tử! Đại Bồ tát nào thà bỏ thân mạng chứ không bỏ chánh pháp,
khiêm nhường với mọi người, không sanh kiêu mạn, nhẫn nại đối với sự sỉ nhục
của bọn hạ tiện, cho hữu tình đói khát những thức ăn ngon, ban sự không sợ hãi
cho người gặp nạn, trị liệu đúng pháp cho người bệnh tật, bố thí nhiều của báu
cho hữu tình nghèo thiếu, sửa sang trang nghiêm tháp miếu thờ chư Phật, diệt
trừ việc xấu, phát huy việc thiện, đem an vui cho hữu tình buồn khổ. Đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật như vậy sẽ được sức kiên cố, hộ trì chánh pháp.
(Bồ tát hành sâu Bát Nhã làm sao có thể điều phục được
tâm?)
Mạn thù thất lợi lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao các đại Bồ
tát hành Bát Nhã thâm sâu có thể điều phục tâm?
Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi:
- Thiện nam tử! Đại Bồ tát nào hành
sâu Bát nhã Ba la mật chẳng xen vào việc của người khác, suy nghĩ trước rồi mới
làm. Tâm tánh ngay thẳng điều hòa, lìa xa sự dua nịnh, chẳng tự khoe cao, ý
thường nhu hòa. Đại Bồ tát này có thể điều phục được tâm.
Mạn thù thất lợi lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát hành
sâu Bát nhã Ba la mật có thể điều phục được tâm thì sẽ sanh về cõi nào?
Phật bảo Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi:
- Thiện nam tử! Nếu đại Bồ tát hành
sâu Bát nhã Ba la mật có thể điều phục được tâm hoặc sanh lên cõi trời, hoặc
sanh trong loài người. Nếu sanh lên cõi trời thì làm Đế Thích, hoặc làm Phạm
vương là chủ cõi Kham Nhẫn. Nếu sanh vào loài người sẽ làm vua Chuyển luân hoặc
làm các vua khác, hoặc làm trưởng giả, cư sĩ. Sanh lên trời hay người cũng
thường được gặp Phật. Đại Bồ tát này hành Bát Nhã thâm sâu có thể điều phục tâm
sẽ sanh vào cảnh giới như vậy.
Mạn Thù Thất Lợi lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chánh tín đưa đến pháp nào?
Phật bảo Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi:
- Chánh tín sinh ra sự khéo hiểu biết.
- Bạch Thế Tôn! Đa văn đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Đa văn dẫn đến trí tuệ vi diệu.
- Bạch Thế Tôn! Bố thí đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Bố thí dẫn đến phước lớn.
- Bạch Thế Tôn! Tịnh giới đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Tịnh giới dẫn đến cảnh giới lành.
- Bạch Thế Tôn! An nhẫn đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- An nhẫn dẫn đến sự dung nạp tất cả hữu tình.
- Bạch Thế Tôn! Tinh tấn đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Tinh tấn dẫn đến sự thành tựu tất cả Phật pháp.
- Bạch Thế Tôn! Tịnh lự đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Tịnh lự dẫn đến sự xa lìa tất cả tán loạn dao động.
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Bát Nhã dẫn đến sự xa lìa tất cả phiền não.
- Bạch Thế Tôn! Nghe pháp đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Nghe pháp dẫn đến sự xa lìa tất cả lưới nghi.
- Bạch Thế Tôn! Hỏi đúng đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Hỏi đúng dẫn đến trí tuệ vi diệu quyết định đối với các
pháp.
- Bạch Thế Tôn! Trú tịch tĩnh sinh ra pháp gì?
Phật dạy:
- Sinh ra thiền định và các thần thông.
- Bạch Thế Tôn! Tu đúng sinh ra pháp gì?
Phật dạy:
- Tu đúng dẫn đến chánh đạo.
- Bạch Thế Tôn! Tiếng vô thường đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Tiếng vô thường dẫn đến sự không nắm bắt đối với cảnh.
- Bạch Thế Tôn! Tiếng khổ đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Tiếng khổ dẫn đến sự vô sanh.
- Bạch Thế Tôn! Tiếng vô ngã đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Tiếng vô ngã dẫn đến sự diệt trừ chấp ngã và ngã sở.
- Bạch Thế Tôn! Tiếng Không đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Tiếng
Không dẫn đến sự tịch tĩnh.
- Bạch Thế Tôn! Chánh niệm đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Chánh niệm dẫn đến Thánh kiến.
- Bạch Thế Tôn! Thân tâm xa lìa đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Thân tâm xa lìa dẫn đến tất cả thần thông diệu tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Thánh đạo đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Thánh đạo dẫn đến Thánh quả.
- Bạch Thế Tôn! Thắng giải đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Thắng giải dẫn đến sự thành tựu tất cả giải thoát.
- Bạch Thế Tôn! Đức Phật ra đời đưa đến pháp nào?
Phật dạy:
- Phật ra đời dẫn đến tất cả Bồ đề phần pháp.
(Phật ra đời như thế nào?)
Bấy giờ, Tối Thắng ở trước Phật
thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Phật ra
đời?
Phật dạy:
- Tối Thắng! Như phát tâm quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phát tâm
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Như phát sanh đại bi.
- Bạch Thế Tôn! Sanh đại bi là thế
nào?
Phật dạy:
- Chẳng bỏ tất cả hữu tình.
- Bạch Thế Tôn! Chẳng bỏ tất cả hữu
tình là sao?
Phật dạy:
- Phải giống như chẳng bỏ Tam bảo.
- Bạch Thế Tôn! Ai có thể không bỏ
Tam bảo?
Phật dạy:
- Tất cả
những người không có phiền não.
Tối Thắng liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch
Thiện Thệ! Thật hy hữu! Chư Phật kín đáo thâm sâu mầu nhiệm, tuy nói pháp
Không, không sanh, không diệt, xưa nay vắng lặng nhưng chẳng phá hoại nghiệp
quả thiện ác, xa lìa đoạn thường. Bạch Thế Tôn! Có trường hợp nào mà những hữu
tình nghe pháp này chẳng kính tin lại sanh tâm hủy báng không?
Phật dạy:
- Cũng có.
- Bạch Thế Tôn! Hữu tình này do đời
quá khứ tu hành thiện nghiệp nên được thọ thân người. Nhưng do gần gũi bạn ác
nên đối với giáo pháp thâm sâu không thể kính tin lại sanh hủy báng, thì làm
uổng phí nghiệp thiện quá khứ. Ân đức của chư Phật thật là sâu nặng, giả sử có
đem máu thịt của mình cúng dường chư Phật cũng chẳng đền đáp được. Nhờ ơn Phật
nên ngày nay chúng ta tăng trưởng căn lành, được pháp lạc lớn, trụ đại tự tại,
trời người cung kính.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát hành
sâu Bát nhã Ba la mật nên biết ơn Phật, thân gần bạn lành, phải tu hạnh của
Phật, chứng quả Bồ đề của Phật.
Khi nói pháp này, trong chúng có hai
vạn năm ngàn Bồ tát đắc Vô sanh nhẫn, bốn vạn năm ngàn chúng trời người đều
phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Một vạn hai ngàn chúng Thiên tử xa
lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh.
Sơ giải:
Phẩm này
phần đầu nói về đạo của Bồ tát tu không phải như Nhị thừa sớm thành tựu giác
ngộ chứng thật tế để vào Niết Bàn mà tu là làm sao ở lâu trong sanh tử để phục
vụ chúng sanh. Đó mới là đạo của Bồ tát.
Phẩm này
chẳng qua là so sánh sự hành đạo Bồ đề của Nhị thừa với Đại thừa. Kinh Đại Bát
Nhãhoặc các Bộ Kinh khác thuộc Đại thừa lúc nào Phật cũng phân biệt hai thừa
này. Sự phân biệt không phải là phân chia hệ cấp trong Phật đạo như trong các
tôn giáo khác. Phật trước tiên thuyết về Tiểu thừa để dẫn dắt chúng sanh học
các pháp lành để thoát khổ (sanh lão bệnh tử...) được vui (Niết bàn). Vì những
pháp tu Tiểu thừa khi xưa chỉ chú trọng vào sự tu tập cốt đạt an lạc hạnh phúc
của từng cá nhân, nghĩa là người tu cốt xa lìa trần sa hoặc(1), sớm chứng chân
lý (thật tế) rồi nhập Niết bàn, không đếm xỉa đến những sanh linh khác đang oằn
oại trong bể khổ sanh tử.
Để dẫn dắt
Nhị thừa lên một trình độ cao hơn, tu cốt để phục vụ chúng sanh. Nên Phật chủ
trương Nhất thừa, gôm tất cả các thừa từ Nhân thừa, Thiên thừa, Tiểu thừa và
Trung Thừa vào Nhất thừa là Phật thừa(2). Nghĩa là chủ trương độ thoát chúng
sanh ra khỏi bể khổ. Tu là cho người khác, không phải cho sự an lạc của chính
cá nhân mình. Nên Bồ tát tu lâu ở trong luân hồi sanh tử để có dịp phục vụ
chúng sanh. Đó là tu đạo chơn hạnh của Bồ tát. Còn tu mà sợ trần sa hoặc tu gấp
để sớm vào Niết bàn, đó là phi đạo!
Hành trì như vậy chẳng phải là đạo Bồ tát.
Rồi Đức
Thích Ca kể cho pháp hội nghe câu chuyện xa xưa trong vô lượng kiếp có Đức Phật
tên là Đa Văn, đầy đủ 10 danh hiệu, kiếp
tên là Tăng Thượng, cõi nước tên Nhật Quang, thuyết pháp môn thanh tịnh cho các
đại Bồ tát. Phật Đa Văn nói:
- “Bồ tát thành tựu tất cả phước
tuệ, vì sức đại bi không bỏ hữu tình, xa lìa Thanh văn và bậc Độc giác, được
đắc Vô sanh nhẫn nhưng chẳng bỏ ba cõi, không hy vọng sanh trưởng căn lành,
dùng phương tiện thiện xảo tu hành tất cả Ba la mật. Dùng sức trí tuệ, không có
tâm phân biệt, sanh trưởng căn lành, thành tựu tận trí được vô lượng công đức.
Dù biết các pháp không có một pháp nào tự nó có thể sanh, chỉ phương tiện hiện
sanh. Dù biết hữu tình không có một hữu tình nào là thật có mà vẫn phương tiện
giáo hóa, biết tất cả pháp đều lìa tự tánh. Quán các cõi Phật đều như hư không
nhưng thường dùng phương tiện khéo léo nghiêm tịnh cõi Phật. Biết tất cả pháp
thân Phật không có hình tướng nhưng phương tiện thị hiện tướng hảo trang
nghiêm. Tùy theo tâm các hữu tình ưa thích điều gì liền phương tiện mà trao cho
họ. Thân tâm Bồ tát tuy thường vắng lặng nhưng vẫn thuyết pháp giáo hóa hữu
tình, cũng dùng phương tiện thiện xảo xa lìa sự ồn náo, tu các thiền định, biết
tự tánh Không nhưng thông suốt được tất cả trí tuệ sâu xa, dùng phương tiện
thuyết pháp cho người khác, không chứng quả Thanh văn, Độc giác mà siêng năng
cầu chứng quả Giải thoát của Như Lai, chẳng bỏ tất cả đạo hạnh của Bồ tát. Phật
Đa Văn kết luận: Đó gọi là đạo của Đại Bồ tát!”
Bồ tát Tấn
Lực (mà Phật Thích Ca kể trong câu chuyện này là
một trong số Bồ tát trong pháp hội của Phật Đa Văn) đã từng nghe Đa Văn Thế Tôn nói về cảnh giới chưa từng có mà Bồ tát
thực hành Bồ tát đạo, nên Bồ tát Tấn Lực bạch Phật Đa Văn:
“Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có, như con hiểu ý
lời Phật nói là: Bồ tát đầy đủ phương tiện thiện xảo, quán tất cả pháp đều là
đạo cả. Ví như hư không dung chứa tất cả sắc. Như vậy, Bồ tát đầy đủ phương
tiện lớn, sự hành đạo thâu nhiếp tất cả pháp. Lại như hư không, tất cả cỏ cây
hoa quả đều nhờ đó mà sanh trưởng. Như vậy, các vật đối với cõi hư không không
thể làm nhiễm hoặc tịnh, chẳng làm giận làm vui. Đại Bồ tát này đầy đủ phương
tiện lớn là Bát Nhã thâm sâu, nên quán
tất cả pháp đều là đạo, nghĩa là pháp của phàm phu hoặc pháp Thanh văn,
hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ tát, hoặc pháp Như Lai. Vì sao? Vì các Bồ tát
này đã thông suốt rồi. Ví như lửa mạnh, nếu gặp cỏ cây tất không lùi lại. Các
cây cỏ này đều thuận theo, càng làm cho ngọn lửa cháy mạnh thêm. Cũng vậy các pháp hoàn toàn thuận theo đạo của Bồ
tát nên gọi là Bồ tát đạo. Thí như kim cương, thể chất nó rắn chắc, dao
không thể chặt gãy, lửa không thể đốt cháy, nước không thể làm tan rã, độc
không thể hại. Cũng vậy, với phương tiện trí tuệ của Bồ tát, Thanh văn, Độc
giác, các ngoại đạo, và tất cả phiền não không thể nào làm tổn hoại được. Như
ngọc lọc được nước, nếu ở trong nước đục tức làm cho trong. Ngọc Bát Nhã của Bồ
tát có thể làm cho tất cả phiền não của hữu tình đều được thanh tịnh. Ví như
thuốc tốt Diệu bảo thần châu không thể ở chung với chất độc, có khả năng làm
tiêu hết các chất độc. Cũng vậy, Bồ tát hành phương tiện thiện xảo của Bát nhã
Ba la mật chẳng chung cùng với tất cả phiền não, mà có thể đoạn diệt tất cả
phiền não. Nhân duyên các pháp như vậy đều là đạo của đại Bồ tát”.
Ý chính của
phẩm “Hiển Đức” này nằm trong hai đoạn Kinh trên do Phật Đa Văn và Bồ tát Tinh
Tấn Lực thuyết về Bồ tát đạo. Hành đạo này sẽ được nhiều công đức trí tuệ để độ
mình độ người. Vì vậy, mới nói có thể thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật
độ, mang an lạc lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận cùng đời vị lai.
Điều đáng
chú ý của phẩm này là cuộc đối thoại giữa Phật và Mạn Thù Thất Lợi. Đó là những
định nghĩa xác thực về tất cả pháp và đồng thời đó cũng là những chỉ dẫn cần
thiết cho người học đạo. Chúng ta phải nghiền ngẫm thọ trì!
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Trần sa
hoặc: Có nhiều nghĩa, nhưng ở đây có thể giải thích “đó là các lậu hoặc nhiều
như cát bụi”. Trần sa là cát bụi. Trong phần này có ý nói: Người tu sạch hết
lậu hoặc có thể trở thành Thánh nhân, lại sợ dính bụi trần mà rơi rụng, nên mau
trốn vào Niết bàn. Phật có quan niệm ngược lại, nên đặt câu hỏi “nếu quặng lọc
hết các bẩn để trở thành vàng ròng, một khi đã là vàng rồi thì vàng có thể trở
lại thành quặng mỏ nữa hay không?” Điều này có nghĩa: Một khi đã trở thành
Thánh nhân rồi thì có bị rơi rụng trở lại thành phàm phu nữa hay không? Quý vị
có thể tự trả lời câu hỏi này. TB
(2). Sẵn đây
xin nói sơ qua về Ngũ thừa để quý vị nào mới học Phật biết thêm tổ chức của
Phật giáo: Khi xưa khi Phật còn tại thế, Phật chia Phật đạo làm năm thành phần
khác nhau tùy theo pháp tu và hạnh nguyên. Thành phần tu hành phổ thông nhất
chính là Nhân thừa, Mānuṣayāna (S):
Chỉ những người sống trên mặt đất (cõi Dục), học và hành ngũ giới trọn vẹn thì
có thể luân hồi trở lại làm người. Thiên
thừa, Devayàna (S): Chỉ chúng sanh ở
cõi trời do tu thập thiện mà được thăng lên cõi ấy. Tiểu thừa, Hīnayāna(S): Ở
đây không nói đến các bộ phái và chủ trương của nó. Ở đây chỉ thuyết sơ về pháp
tu và nguyện ước của thành phần này mà thôi. Tiểu thừa phân tích rõ trạng thái
của đời sống con người, bản chất sự vật, cơ cấu của ngã và pháp, chỉ ra các Khổ
(khổ là một sự thật, làm sao thoát khổ, làm sao thoát sanh tử luân hồi, làm sao
đạt Niết bàn an vui?). Vì vậy, Tiểu thừa tu các pháp tu như Tứ đế, Bát chánh
đạo, nghiệp và quả cốt phá ngã, diệt tội thực hiện ước nguyện đầu tiên cũng như
cuối cùng là được giác ngộ, giải phóng cá nhân mà vào Niết bàn an vui. Trung thừa, Mādhyamayāna (S): Thừa này ít thấy nói đến trong Kinh sách, không được
phổ thông lắm. Một số học giả cho rằng Trung thừa do Ngài Long Thọ sáng lập,
nằm ở giữa Tiểu thừa và Đại thừa, vì nó có thể giúp hai thừa này giải quyết các
cực đoan trong tư duy hay hiện thực. Nhưng Kinh ĐBN xếp Duyên Giác, Độc giác
hay Bích Chi Phật vào Trung thừa. Đó là những vị tự mình phá vỡ được chu kỳ
sinh diệt của mười hai nhân duyên là Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập,
Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão tử mà được giác ngộ. Đại thừa, Mahāyāna (S):
Vì phương pháp tu hành và hạnh nguyện khác với các thừa trên. Muốn trở thành Bồ
tát thừa, Phật thừa thì trước hết phải học tất cả các pháp môn Phật học của các
thừa khác, sau đó phải tu lục độ vạn hạnh nghĩa là tu bố thí, trì giới, an
nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và lập nguyện độ thoát chúng sanh ra khỏi
bể khổ, được an vui rốt ráo.
Tổ chức Phật
giáo không phải là một hệ cấp hình kim tự tháp: Trên đầu là Phật. Kế là Bồ tát,
xuống là Thanh văn, Độc giác, dưới là chư Thiên và tầng cuối cùng là Người, mặc
dầu trong Kinh thường nói đến thập giới (Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn,
Thiên, Nhân, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỷ và Địa ngục). Sự phân chia giai vị
trong Phật đạo là tùy theo tu chứng và hạnh nguyện: Tiểu thừa tu để thoát khổ
cho mình, cho cá nhân mình hưởng; trong khi Đại thừa tu là vì người khác, vì an
lạc hạnh phúc của toàn thể chúng sanh. Vì vậy, trong Kinh Phật nhất là các Kinh
thuộc Đại thừa quở bậc Nhị thừa, muốn gộp tất cả các thừa vào Nhất thừa gọi
chung là Phật thừa, là vì vậy. Nhưng ngày nay Tiểu thừa thay đổi quan niệm,
cũng chủ trương cứu độ chúng sanh như Đại thừa, cách tu tuy có khác nhưng hạnh
nguyện không khác.
---o0o---