IV. PHẨM “PHÁP
GIỚI”(1)
Cuối quyển
567 đến đầu quyển 568, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương đương với phẩm 3: Pháp Giới, Kinh TTVBN)
Gợi ý:
Như trên
giới thiệu Hội thứ VI cũng tương tợ như 5 Hội đầu mà chúng ta vừa tụng qua. Tuy
nhiên, đặc biệt Hội này tách pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh (tức 3 pháp
trong thập nhị chơn như) làm thành 3 phẩm và thuyết riêng rẽ nhau. Vì vậy, mới
nói Hội này đặc biệt so với tất cả các Hội khác. Vì sao? Vì một khi hiểu hay
chứng được chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, thật tế... thì được
xem là giác ngộ. Bài pháp của phẩm này thật là thậm thâm vi diệu. Xin chậm rãi
đọc tụng.
Tóm lược:
(Bồ tát làm thế nào học Bát Nhã mà thông suốt được pháp giới)
Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng
dậy, che vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát làm
thế nào tu học Bát Nhã sâu xa thông suốt pháp giới?
Phật bảo trời Tối Thắng:
- Lành thay! Lành thay! Hãy lắng
nghe! Thật khéo tác ý! Ta sẽ phân biệt giảng thuyết cho ngươi.
Trời Tối Thắng bạch:
- Cúi xin Thế Tôn giảng thuyết,
chúng con mong muốn được nghe.
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ
tát học Bát Nhã sâu xa có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, phát khởi siêng năng
tinh tấn, lìa các chướng ngại phiền não, tâm được thanh tịnh, cung kính tôn
trọng, muốn tu tập hạnh Không, xa lìa các kiến, tu đạo như thật, thông suốt
pháp giới.
Thiên vương nên biết! Các Bồ tát này
có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, vui mừng kính thờ, tưởng như Phật. Vì gần gũi
bạn lành nên xa lìa biếng nhác, diệt trừ tất cả pháp ác bất thiện, tăng trưởng
căn lành. Đã diệt phiền não, xa lìa pháp
chướng ngại, thân, ngữ, ý nghiệp đều được thanh tịnh; do thanh tịnh nên liền
sanh kính trọng; vì tâm kính trọng, tu tập hạnh Không; vì tu tập hạnh Không nên
xa lìa các kiến; vì xa lìa các kiến nên tu hành chánh đạo; tu hành chánh đạo
nên có thể thấy pháp giới.
(Chơn như của các pháp)
Trời Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là pháp giới?
Phật bảo trời Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Pháp giới
chính là tánh chẳng hư vọng.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh
chẳng hư vọng?
- Này Thiên vương! Tức là tánh chẳng
đổi khác.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh
chẳng đổi khác?
- Này Thiên vương! Tức là chơn như
của các pháp(2).
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chơn như của các pháp?
- Thiên
vương nên biết! Như (chơn như
của các pháp) này sâu xa
vi diệu chỉ có trí biết, chẳng phải do lời nói biết được. Vì sao? Vì các pháp
như (hay chơn như) vượt văn tự,
lìa ngữ ngôn; tất cả sự diễn đạt chẳng thể diễn đạt nổi; lìa hý luận, dứt phân
biệt, không đây kia; lìa tướng vô tướng, xa lìa suy lường, vượt cảnh suy lường,
không tưởng không tướng, vượt khỏi hai cảnh, xa lìa người ngu, lìa cõi phàm
tục, vượt khỏi cảnh ma, xa lìa mê chướng, thức không thể biết, trụ không chỗ
trụ, vắng lặng Thánh trí và cảnh giới của hậu đắc trí vô phân biệt, không ngã,
ngã sở, cầu chẳng thể được, không thủ, không xả, không nhiễm, không đắm, thanh
tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh chẳng biến đổi; hoặc Phật ra đời hay chẳng
ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ. (Q.567, ĐBN)
Thiên vương
nên biết! Đó là pháp giới. Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu chứng
pháp giới, hành nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó hành, làm cho các hữu tình đều
được thông suốt.
Này Thiên
vương! Đấy gọi Thật tế Như như của Bát nhã Ba la mật, tướng không phân biệt,
bất tư nghì giới, cũng gọi Chơn không, Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí,
pháp giới không hai.
(Pháp giới:
Giới nghĩa là chỗ nương. Chân như cũng là chỗ nương của các pháp. Tuy hai mà
một nên nói pháp giới, chân như không hai không khác!)
(Làm sao học hành và chứng đắc pháp giới)
Bấy giờ, trời Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao có thể chứng đắc pháp giới như thế?
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Bát nhã Ba
la mật xuất thế và hậu đắc trí vô phân
biệt (3) có thể chứng, có thể đắc.
- Kính bạch Thế Tôn! Nghĩa chứng và
đắc có gì khác?
- Thiên vương nên biết! Bát nhã Ba la mật xuất thế có khả năng thấy
đúng như thật nên gọi là chứng, hậu đắc trí thông suốt nên gọi là đắc.
Trời Tối Thắng bạch Phật:
- Như Phật đã dạy tuệ của văn, tư,
tu chẳng thông suốt thật tướng Bát nhã Ba la mật, mà lại nói chỉ có Bát nhã Ba
la mật xuất thế và hậu đắc trí vô phân biệt có khả năng chứng đắc?
Phật dạy:
- Chẳng phải vậy! Vì sao? Vì thật tướng Bát Nhã sâu xa vi diệu, văn
tuệ thô thiển, cạn cợt, chẳng thể thấy được. Vì là thắng nghĩa nên tư tuệ chẳng
thể suy lường được. Vì là pháp xuất thế nên tu tuệ chẳng thể hành được.
Thiên vương nên biết! Thật tướng Bát
Nhã sâu xa vi diệu, phàm phu, Nhị thừa chẳng thể thấy được. Vì sao? Vì hạng kia
như mù bẩm sanh, chẳng thấy các sắc; như trẻ con mới sinh bảy ngày chẳng thấy
mặt trời; thấy còn chẳng thể được, huống là có thể chứng.
Này Thiên
vương! Ví như mùa hè nóng bức, có người đi về phương Tây, ở giữa đồng hoang,
lại có một người từ phương Tây đi đến, hỏi người trước mặt:
“Tôi nay bị
nóng khát, biết chỗ nào có nước trong và bóng mát làm ơn chỉ giúp”.
Người kia
đáp:
“Từ đây đi
về hướng Đông, sẽ có hai đường: một là phía bên trái, hai là phía bên phải, nên
theo đường bên phải, lần hồi đi tới có ao suối nước trong và bóng cây mát mẻ”.
Này Thiên
vương! Ý ngươi thế nào? Người nóng khát kia chỉ nghe tên suối và cây mát như
thế, liên tưởng như thế thì có thể trừ nóng khát, được mát mẻ ngay chăng?
- Bạch Thế
Tôn! Chẳng được. Người kia phải đến nơi, vào ao tắm rửa, uống nước, nghỉ dưới
gốc cây mới khỏi nóng khát và được mát mẻ.
Phật dạy:
- Này Thiên
vương! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ chẳng thể thông suốt
thật tướng Bát nhã Ba la mật.
Thiên vương
nên biết! Nói về đồng nội tức dụ cho sanh tử, người dụ cho hữu tình, nóng dụ
cho các phiền não, khát dụ cho tham ái. Người phương Đông đến, dụ cho các Bồ
tát, đường bên trái dụ cho chẳng phải chánh đạo, đường bên phải dụ cho đạo Nhất
thiết trí. Các chúng Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa biết rõ con đường thẳng đến
sanh tử. Suối dụ cho Bát nhã Ba la mật, cây dụ cho đại bi. Các đại Bồ tát hành
hai pháp nên xa lìa phàm phu và đạo Nhị thừa. Thiên vương nên biết! Bát Nhã sâu
xa tuy không hình tướng mà khéo nói nên khiến các hữu tình có thể chứng, có thể
đắc. (Q. 567, ĐBN)
Thiên vương
nên biết! Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật có thể biết đúng như thật:
Lực, Vô sở úy, Bất cộng pháp, Không. Cũng biết đúng như thật các giới uẩn, định
uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn là Không. Cũng biết đúng
như thật nội Không, ngoại Không, và nội ngoại Không, Không Không, đại Không,
thắng nghĩa Không v.v... Mặc dù biết tất cả pháp đều Không, nhưng biết tướng
Không cũng bất khả đắc, chẳng thủ tướng Không, chẳng khởi thấy Không, chẳng
chấp tướng Không, chẳng nương tựa Không. Như vậy, Bồ tát vì chẳng thủ trước nên
chẳng rơi vào Không.
Thiên vương
nên biết! Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên xa lìa các tướng, nghĩa
là hoàn toàn chẳng thấy các tướng trong ngoài, lìa tướng hý luận, lìa tướng
phân biệt, lìa tướng tầm cầu, lìa tướng tham đắm, lìa tướng cảnh giới, lìa tướng
phan duyên, lìa tướng năng tri và sở tri.
Trời Tối Thắng lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các chúng đại Bồ
tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, có thể quán các pháp vô tướng như thế thì làm
thế nào để quán cảnh giới Phật Bạc già phạm (tức
cánh giới chư Phật)?
Phật dạy:
- Này Thiên
vương! Cảnh giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì lìa cảnh giới vậy. Tất
cả hữu tình suy lường Phật cảnh thì tâm phát sanh cuồng loạn, chẳng biết đây
kia. Vì sao? Vì tánh đồng hư không, chẳng thể suy lường, cầu chẳng thể đắc, lìa
cảnh suy tầm; các chúng Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật còn chẳng thấy có
cảnh phàm phu v.v... có thể suy lường được, huống là cảnh giới Phật; cũng chẳng
nương tựa tất cả diệu nguyện. Mặc dù hành các pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nhưng đối với quả kia hoàn toàn không
chấp đắm, đối với các công đức cho đến Niết bàn cũng chẳng nương tựa, chấp
trước. Vì sao? Vì lìa ngã và ngã sở, không hai, không khác, vì lìa tự tánh vậy. (Q.567, ĐBN)
Khi Phật thuyết pháp môn Bát Nhã sâu
xa như thế, làm cho Tam thiên đại thiên thế giới này chấn động sáu cách, núi
Diệu Cao Vương, núi Mục chơn lân đà, núi Đại Mục chơn lân đà, núi Kim Cang Luân
Vi, núi Đại Kim Cang Luân Vi, núi Hương, núi Bảo, núi Hắc, núi Đại Hắc, tất cả
đều chấn động, vô lượng trăm ngàn các chúng Bồ tát đều cởi thượng y trải làm
chỗ ngồi cho Phật, tòa đó cao rộng như núi Diệu Cao. Vô lượng trăm ngàn các
Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế v.v... chắp tay cung kính rải cúng
các thứ hoa đẹp, đó là hoa Diệu Âm, hoa đại Diệu Âm, hoa Cát Tường, hoa đại Cát
Tường, hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía.
Khi ấy, núi Thứu Phong cao rộng bốn
mươi do tuần, hoa chất đầy khắp đến tận đầu gối Như Lai. Vô lượng Thiên tử ở
giữa hư không trổi các nhạc trời và xướng lên thế này:
- Lại thấy Phật xuất thế. Lại nghe
chuyển pháp luân. Lành thay! Tất cả loài hữu tình châu Thiệm bộ siêng tu công
đức, trồng nhiều thiện căn nên được nghe Bát Nhã sâu xa như thế, huống là tương
lai có người có thể tin. Nên biết, tất cả hữu tình như thế đều đi trong cảnh
giới chư Phật Như Lai.
Lại có vô lượng trăm ngàn Long vương
dùng thần lực bủa giăng mây lớn cùng khắp, rưới mưa hương rảy thấm núi Thứu
Phong và cùng khắp tam thiên đại thiên thế giới. Những người nghe pháp chỉ biết
thấm nhuận hương, chẳng thấy bị thấm ướt. Vô lượng Long nữ đều ở trước Phật
chắp tay khen ngợi.
Lại có vô lượng thần Kiền đạt phược
dùng âm nhạc để cúng dường Phật. Các chúng Dược xoa rải cúng các thứ hoa
đẹp. A tu la v.v.. cung kính cúng dường.
Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở
vô lượng, vô biên cõi Phật trong 10 phương, phóng ánh sáng từ tướng lông giữa
chặng mày, chiếu soi những chốn tối tăm ở Tam thiên đại thiên thế giới này. Hào
quang đó chiếu sáng rực rỡ khắp núi Thứu Phong và các thế giới xong, liền quay
trở về chỗ chư Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng và nhập vào nơi đảnh Phật.
Vô lượng trăm ngàn chúng Bà la môn
và Sát đế lợi, Trưởng giả, Cư sĩ đều đem các thứ hương xoa, hương bột, cờ,
phướn, lọng, phan, hoa để cúng dường Phật.
Bấy giờ, trong hội có bảy mươi hai
ức đại Bồ tát đắc Vô sanh pháp nhẫn, vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình xa
trần lìa cấu, sanh tịnh pháp nhãn, vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình đều
phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, trời Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa đã
tuyệt ngữ ngôn, lìa văn tự, đại Bồ tát làm sao hành sâu Bát nhã Ba la mật và
thuyết cho các hữu tình pháp như thế?
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ
tát hành sâu Bát nhã Ba la mật và thuyết cho các hữu tình pháp như thế là tu
tập Phật pháp, nhưng đối với các Phật pháp hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì thành
thục các Ba la mật nhưng đối với các Ba la mật, hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì
thanh tịnh Bồ đề, nhưng đối với Phật Bồ đề rốt ráo chẳng thể đắc. Vì ly diệt
Niết bàn nhưng đối với ly diệt Niết bàn hoàn toàn bất khả đắc. Vì bốn quả Sa
môn, nhưng đối với bốn quả Sa môn hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì Độc giác Bồ đề,
nhưng đối với Độc giác Bồ đề hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì dứt trừ ngã, thủ,
nhưng đối với ngã, thủ hoàn toàn chẳng thể đắc. Đại Bồ tát này hành sâu Bát nhã
Ba la mật chẳng phân biệt tất cả pháp tướng; năng phân biệt và sở phân biệt đều
chẳng thể đắc; tùy thuận Bát nhã Ba la mật mà chẳng trái sanh tử. Mặc dù ở sanh
tử mà chẳng trái Bát nhã Ba la mật, tùy thuận pháp tướng.
Trời Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát làm
sao tùy thuận pháp tướng sâu xa, chẳng trái thế tục?
Phật dạy:
- Này Thiên vương! Bồ tát tùy thuận
Bát Nhã sâu xa, chẳng xa lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng xa lìa cõi Dục,
cõi Sắc, cõi Vô sắc; chẳng xa lìa pháp nhưng không chấp trước; tùy thuận Bát
nhã Ba la mật, chẳng xa lìa đạo. Vì sao? Vì đầy đủ năng lực đại phương tiện
thiện xảo vậy.
Trời Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Cái gì gọi là Bồ tát
phương tiện thiện xảo?
Phật dạy:
- Này Thiên vương! Đó là bốn vô
lượng. Các đại Bồ tát đầy đủ tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả nên thường có
thể lợi ích an vui trong việc giáo hóa hữu tình, đó là Bồ tát phương tiện thiện
xảo.
(Bốn tâm vô lượng).
- Bạch Thế Tôn! Vì sao bốn thứ này
nói là Đại?
- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ
tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đầy đủ Từ không biên giới, Từ không phân biệt,
Từ các pháp tánh, Từ chẳng ngưng nghỉ, Từ không não hại, Từ lợi ích lớn, Từ bi
tánh bình đẳng, Từ bi lợi lạc khắp, Từ bi xuất thế gian. Những loại như thế
v.v... gọi là Đại từ (4).
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy các hữu tình đủ các thứ khổ, không có nơi quay
về nương tựa, vì muốn cứu giúp nên phát Bồ đề tâm, siêng cầu chánh pháp; đã tự
mình đắc rồi, giảng thuyết cho các hữu tình:
Những người tham lam thì dạy tu bố
thí.
Người không giới, phá giới thì dạy
thọ trì giới.
Người tánh hung ác, dạy hành nhẫn
nhục.
Người lười biếng, trễ nãi, dạy hành
tinh tấn.
Người tâm tán loạn, dạy hành tịnh
lự.
Người ngu si, dạy học diệu tuệ.
Vì độ hữu tình nên dù gặp phải các
thứ việc khó khăn rất khổ nhọc, nhưng hoàn toàn không rời bỏ Bồ đề tâm. Những
việc làm như thế gọi là Đại bi.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, nghĩ:
Ba cõi lửa cháy dữ dội, ta đã ra
khỏi nên sanh hoan hỷ.
Dây sanh tử ràng buộc từ lâu, ta đã
cắt đứt vĩnh viễn nên sanh hoan hỷ. Ở trong biển sanh tử tìm tòi chấp thủ, chấp
tướng, ta đã ra khỏi hẳn nên sanh hoan hỷ.
Cờ kiêu mạn dựng từ vô thỉ, ta đã bẻ
gãy nên sanh hoan hỷ.
Dùng trí Kim cang phá núi phiền não,
làm cho tiêu tan hết nên sanh hoan hỷ.
Ta đã tự an ổn, lại an ổn cho người.
Kẻ ngu si tối tăm, kẻ tham, sân, mạn v.v... phiền não trói buộc, ngái ngủ triền
miên trong thế gian, nay mới được thức tỉnh nên sanh hoan hỷ.
Ta nay đã thoát khỏi tất cả nẻo ác,
lại có thể cứu giúp hữu tình trong nẻo ác, làm cho được ra khỏi, nên sanh hoan
hỷ.
Hữu tình từ lâu ở trong sanh tử mê
lầm, chẳng biết đường ra, ta nay cứu giúp chỉ dạy đường chánh, làm cho đến được
thành Nhất thiết trí, an vui hoàn toàn nên sanh hoan hỷ.
Các việc làm như thế v.v... gọi là Đại hỷ.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả sắc mà mắt đã thấy, tiếng mà tai đã
nghe, mùi mà mũi đã ngửi, vị mà lưỡi đã nếm, xúc mà thân đã chạm, pháp mà ý đã
rõ, chẳng đắm, chẳng lìa mà khởi tâm xả. Những việc làm như thế gọi là Đại xả.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu bốn vô lượng lớn như thế, do đó gọi là
phương tiện thiện xảo. (Hết Q. 567, ĐBN)
Quyển thứ 568
Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì độ hữu tình các
đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thị
hiện các tướng như thế nào?
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Tướng Bát
Nhã sâu xa bất khả đắc. Vì cứu độ hữu tình nên các Ngài dùng oai lực phương tiện thiện xảo, thị hiện các tướng giáo hóa bằng
cách nhập vào thai mẹ cho đến nhập Niết bàn. Vì sao? Vì chư thiên chấp
thường cho rằng không bị đọa lạc nên Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng
phương tiện thiện xảo thị hiện các tướng vào thai mẹ để phá chấp kia. Do đó làm
cho chư thiên phát sanh ý niệm vô thường, nghĩ: Bậc tối thắng, tối tôn ở trong
thế gian chẳng ai sánh bằng, không nhiễm dục mà còn rơi đọa, huống nữa là chư
thiên khác mà được thường ư? Cho nên chúng ta chớ có buông lung cần phải tinh
tấn, giữ niệm tu đạo.
Như thấy mặt trời còn có lúc lặn mất
thì biết lửa đom đóm không thể tồn tại lâu dài.
Lại có chư Thiên sống phóng dật say
đắm dục lạc, không tu chánh pháp, mặc tình đùa giỡn. Tuy cùng với Bồ tát ở
trong thiên cung nhưng không đến lễ bái, không thưa hỏi pháp mà đều nghĩ: Lúc
này, ta hãy hưởng dục, đợi đến ngày mai sẽ đến gặp Bồ tát để thưa hỏi pháp.
Nghĩ vậy rồi bảo: Ta cùng với Bồ tát thường ở nơi đây thì việc tu hành đâu có
muộn màng gì? Do đó, Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, siêng tu tinh tấn như
cứu lửa cháy đầu để phá trừ hành động buông lung nên thị hiện đọa lạc. Sự thị
hiện này có hai nguyên nhân:
1. Làm cho
chư thiên xa lìa sự buông lung.
2. Làm cho hữu tình đều được trông thấy.
Vì trong thế gian cũng có hữu tình
hèn kém, ít có thiện căn không thể thấy Phật thành Vô thượng giác, chuyển xe
diệu pháp nên Bồ tát phải thị hiện làm trẻ con chơi giỡn ở hậu cung. Nếu làm
các tướng khác để thuyết pháp thì e rằng nữ nhân trong hậu cung khó tin được.
Do đó, Bồ tát thị hiện làm trẻ con.
Người có đức hạnh cao thượng hay rời
bỏ thế tục thì Bồ tát vì người kia mà thị
hiện xuất gia.
Lại có thiên nhơn suy nghĩ: Ngồi yên
thọ lạc thì không đạt được Thánh đạo. Bồ tát vì người kia thị hiện khổ hạnh. Vì
để hàng phục khổ hạnh của ngoại đạo, nên Bồ tát thị hiện các khổ hạnh khó hành.
Lại có thiên nhơn ngày đêm phát
nguyện: Khi Bồ tát đi đến tòa Bồ đề thì thiên nhơn chúng ta cung kính cúng
dường. Bồ tát vì họ nên đi đến tòa Bồ đề. Vô lượng thiên nhơn đã cúng dường rồi
đều được nhân duyên Bồ đề.
Lại có thiên nhơn nghĩ: Ác ma ngoại
đạo làm chướng ngại chánh pháp, nguyện các Bồ tát ngồi tòa Bồ đề điều phục ác
ma và ngoại đạo để cho người có chánh tín đều được thấy pháp.
Sau khi Bồ tát thành chánh giác,
trong hư không khắp tam thiên đại thiên thế giới vang lên những âm thanh tán
thán:
Mặt trời Phật xuất hiện ở thế gian
làm cho ánh sáng đom đóm lặn mất.
Chư thiên v.v… nói: Nguyện cho tôi
đời sau thành Vô thượng giác như sự chứng đắc Bồ đề của Bồ tát hôm nay, vì các
hữu tình mà ngồi tòa Bồ đề.
Lại có thiên nhơn v.v... nói: Nguyện
được thấy Đại sư thành Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí, vô sư trí(5), tự
nhiên trí. Đó là các hữu tình không cầu xuất ly mà căn tánh đã thuần thục, thâm
sâu chánh pháp. Bồ tát vì các hữu tình này mà thị hiện ba lần chuyển, mười hai
hành tướng vô thượng pháp luân.
Lại có thiên nhơn muốn thấy viên
tịch. Bồ tát vì họ mà thị hiện viên tịch.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật có khả năng thị hiện các tướng biến hóa như vậy.
Thiên vương nên biết: Đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật chắc chắn không sanh vào cảnh giới bất an. Vì sao?
Vì người không phước đức, không nghe được danh tự Bát nhã Ba la mật vậy.
Lại nữa, các Bồ tát thường xa lìa ác
nghiệp, không hề hủy phạm giới cấm. Tâm không ganh ghét. Thân, khẩu không phạm
lỗi. Vì đã gieo trồng nhiều căn lành với vô lượng Phật trong quá khứ, đầy đủ
phước đức, trí tuệ, phương tiện thù thắng, thành tựu đại nguyện, tâm ưa tịch
tịnh, siêng tu tinh tấn, lìa biếng bỏ nhác.
Thiên vương nên biết: Các Bồ tát này
không có ác nghiệp đọa vào địa ngục, vì luôn thực hành mười thiện nghiệp đạo.
Các Bồ tát này không có phá giới, thường hay hộ trì giới đã thọ, khỏi đọa vào
loài bàng sanh. Các Bồ tát này không có tâm ganh ghét, không đọa vào loài ngạ
quỷ, không sanh vào nhà tà kiến, thường gặp bạn lành, xa lìa bạn ác. Vì sao? Vì
đã trồng nhiều căn lành với vô lượng Phật trong thời quá khứ cho nên được sanh
chỗ giàu sang, có quyền thế, đầy đủ chánh kiến. Các Bồ tát này thọ thân đầy đủ,
thành tựu pháp khí của Phật. Vì sao? Vì vào thời quá khứ đã cúng dường chư
Phật, lắng nghe chánh pháp, kính lễ đại chúng cho nên sanh ở chỗ nào cũng đầy
đủ các căn, hình tướng xinh đẹp, thành pháp khí của Phật. Các Bồ tát này không
sanh nơi biên địa, độn căn ngu si, không biết rõ thiện ác, lời nói và ý nghĩa
chẳng hợp với pháp khí của Phật. Vì sao? Vì Bồ tát chắc chắn thọ sanh ở trung
tâm của quốc độ, các căn thông tuệ, nói năng lưu loát, biết rõ ý nghĩa về ngôn
ngữ là pháp khí của Phật, biết rõ Sa môn, Bà la môn v.v... Vì sao? Vì đời trước
Bồ tát đầy đủ năng lực trí tuệ, phước đức thù thắng nên Bồ tát không sanh vào
cõi trời sống lâu, vì không lợi ích cho người, không được gặp Phật. Các Bồ tát đa
số sanh ở Dục giới, thị hiện ở đời, lợi lạc hữu tình. Vì sao? Vì đầy đủ năng
lực phương tiện thiện xảo tối thắng. Bồ tát không sanh vào thế giới không có
Phật, không người thuyết pháp, không nghe chánh pháp, không cúng dường Tăng. Vì
sao? Vì sức nguyện mạnh mẽ đời trước nên Bồ tát sanh chỗ nào cũng đầy đủ Tam
bảo. Các Bồ tát này nghe pháp ác ở thế giới liền sanh tâm nhàm chán, xa lìa.
Các Bồ tát này tu hạnh tịch tịnh, tâm không lười biếng, tinh tấn dõng mãnh,
dùng các pháp thiện diệt các pháp ác.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, nhờ tất cả nhân duyên như thế nên chắc chắn không
sanh vào nơi không thuận tiện.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, dù cho trong mộng cũng không quên mất Bồ đề tâm, huống chi lúc thức mà lại quên ư? Vì sao?
Vì các thiện pháp đều được sanh ra ở tâm
này, tức là tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu không có tâm này thì không có
Phật. Nếu không có Phật thì không có pháp, không có pháp thì không có Tăng. Do
có tâm này nên có Tam bảo và có trời, người tu thiện, hưởng thọ an vui. Các
Bồ tát thường xa lìa nịnh hót, lừa dối. Tâm Bồ tát thanh tịnh, chân thật nhu
hòa, không do dự đối với Phật pháp. Nếu người muốn lắng nghe, thọ nhận thì Bồ
tát không giấu ý nghĩa sâu xa. Bồ tát xa lìa sự ganh ghét và ác nghiệp tam
đồ(6). Giai đoạn trước, giữa và sau không có tướng thay đổi, hành pháp Đại thừa
chẳng trái với lời nói, thấy người đồng học sanh tâm cung kính khuyên siêng tu
tập, xưng tán Đại thừa. Đối với Pháp sư thường tưởng như Phật, thân gần bạn
lành, xa lìa bạn ác. Đó là phương tiện thiện xảo của các Bồ tát hành sâu Bát
nhã Ba la mật nên thành tựu tâm Bồ đề như vậy, nương nơi tâm này đắc Túc mạng
trí. Vì sao? Vì đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, hộ trì chánh pháp, trì
giới thanh tịnh, xa lìa ác nghiệp, hoàn toàn không còn chướng ngại, tâm thường
hoan hỷ, tâm siêng tu học, tâm không tán loạn, tâm trí không lầm lẫn. Vì sao?
Vì tôn trọng chánh pháp nên các Bồ tát này đã từng cúng dường vô lượng chư
Phật. Do tôn trọng chánh pháp nên đã vì
người khác giảng thuyết sâu rộng, vì hộ chánh pháp nên chẳng tiếc thân mạng.
Thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp đều thanh tịnh. Do nghiệp thanh tịnh nên lìa
các chướng ngại. Do lìa chướng ngại nên tâm thường hoan hỷ, do tâm hoan hỷ nên
siêng năng tinh tấn. Tâm tánh chánh trực, niệm trí viên mãn. Do niệm trí viên
mãn nên biết đời sống quá khứ, một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, cho
đến vô số kiếp, các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, rõ biết như thật về các
nơi sanh thời quá khứ, biết rõ đời trước gần gũi bạn lành nên đối với ba việc
nghe, thấy, niệm về chư Phật chẳng quên mất, thường ưa nghe pháp, cúng dường
Tăng bảo không lúc nào để thời gian trống rỗng trôi qua; đối với việc cúng
dường cung kính lễ bái Phật, Bồ tát không bỏ qua lúc nào; đi đứng nằm ngồi luôn
luôn lắng nghe học hỏi.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
nhờ trì tịnh giới nên thường được nghe danh tự công đức Bát nhã Ba la mật,
thường tu tập Bồ đề phần pháp, không xa lìa ba môn giải thoát, thường xuyên tu
tập Bốn vô lượng tâm, thường nghe Vô thượng Nhất thiết trí.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát Nhã do đó gần gũi bạn lành.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, dù cho trong mộng còn chưa gần bạn ác huống chi là
lúc thức mà lại gần gũi ư? Vì sao? Vì Bồ tát đối với kẻ phá giới, kẻ đắm trước
tà kiến, hạng bất luật nghi, người hành tà mạng, người nói vô nghĩa, người lười
biếng, người ưa sanh tử, quay lưng với Bồ đề, hay ưa thế tục, tuy thường thương
xót họ nhưng không ở chung.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật nhờ đó thường xa lìa bạn ác.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật nên được mười
thân sai khác của Như Lai(7). Mười thân đó là gì? Là:
1.Thân bình đẳng.
2.Thân thanh tịnh.
3.Thân vô tận.
4.Thân tu tập viên mãn.
5.Thân pháp tánh.
6.Thân lìa tầm tứ (truy cầu và phân tích).
7.Thân bất tư nghì.
8. Thân tịch tịnh.
9. Thân hư không.
10. Thân diệu trí.
Bấy giờ, Tối
Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đến địa vị nào mới đạt được mười
thân của Như Lai?
Phật bảo Tối
Thắng:
- Thiên
vương nên biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật ở trong sơ địa được thân bình đẳng. Vì sao? Vì
thông đạt pháp tánh xa lìa tà vạy, thấy tất cả đều bình đẳng.
Trong nhị địa được thân thanh tịnh. Vì sao?
Vì xa lìa phạm giới, nên được thanh tịnh.
Ở trong địa thứ 3 được thân vô tận. Vì sao? Vì
lìa dục, tham, sân nên được thắng định.
Trong địa thứ 4 được thân tu tập viên mãn. Vì
sao? Vì thường siêng tu tập Bồ đề phần.
Trong địa thứ 5 được thân pháp tánh. Vì sao?
Vì quán các đế chứng đạt pháp tánh.
Trong địa thứ 6 được thân ly tầm tứ. Vì sao?
Vì quán lý duyên khởi, xa lìa tầm tứ.
Trong địa thứ 7 được thân bất tư nghì. Vì
sao? Vì thực hành đầy đủ trí phương tiện quyền xảo.
Trong địa thứ 8 được thân tịch tịnh. Vì sao?
Vì lìa các phiền não, hý luận.
Trong địa thứ 9 được thân hư không. Vì sao?
Vì thân tướng vô tận biến khắp tất cả.
Trong địa thứ 10 được thân diệu trí. Vì sao?
Vì tu tập viên mãn Nhất thiết chủng trí.
Khi ấy, Tối
Thắng lại bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Như vậy thân Bồ tát và thân Phật nào có sai khác?
Phật bảo Tối
Thắng:
- Tuy thân
không sai khác nhưng công đức có sai
khác, nghĩa ấy như thế nào? Nghĩa là thân Phật và thân Bồ tát không có sai
khác? Vì sao? Vì tất cả pháp đồng một tánh tướng. Công đức sai khác là thân Như
Lai đầy đủ công đức, còn thân Bồ tát thì không được như vậy. (Q.568, ĐBN)
Ta sẽ nói
thí dụ cho ngươi. Thí như bảo châu được trang sức hay không được trang sức thì
bảo châu ấy vẫn như nhau. Thân Phật và thân Bồ tát cũng lại như vậy. Tuy công
đức có sai khác nhưng pháp tánh không sai khác. Vì sao? Vì công đức Như Lai hoàn toàn viên mãn, cùng tận đến mười phương, biến
khắp cõi hữu tình, thanh tịnh xa trần lìa cấu, không còn chướng ngại. Công đức của Bồ tát chưa viên mãn nên vẫn
còn chướng ngại. Ví như mặt trăng lúc khuyết, lúc tròn, nhưng tánh trăng
vẫn không sai khác. Hai thân cũng vậy, đều kiên cố không thể phá hoại được
giống như kim cương. Vì sao? Vì không bị ba độc phá hoại, vì không nhiễm pháp
thế tục, vì không bị bức bách bởi các cảnh khổ ở cõi ác của trời người, xa lìa
hẳn sanh, lão, bệnh, tử, có khả năng chế phục ngoại đạo, vượt cảnh giới ma,
chẳng hướng đến Độc giác và Thanh văn thừa, do đó không bị phá hoại.
Thiên vương
nên biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khéo hướng dẫn thế gian,
trời, người, A tu la v.v... đều tin cậy. Thí như có người khéo dẫn đường được
quốc vương hoặc hàng thân cận vua v.v... hoặc trưởng giả, cư sĩ đều tin cậy.
Các Bồ tát cũng lại như vậy, Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, Như Lai đều xứng đáng
là người dẫn đường giỏi. Thí như có người khéo dẫn đường thì quốc vương, đại
thần, Bà la môn v.v... đều tôn kính. Cũng vậy, các đại Bồ tát đều được trời,
rồng, dạ xoa, A tu la v.v... và bậc hữu học, bậc vô học cúng dường. Như kẻ đi
đường mệt mỏi giữa nơi hoang dã nguy hiểm gặp kẻ dẫn đường có thể được an ổn.
Cũng vậy, các vị đại Bồ tát này dùng năng lực phương tiện hướng dẫn hữu tình ra
khỏi sanh tử được an ổn.
Như người
nghèo khó nương dựa vào trưởng giả giàu có mới thoát khỏi túng thiếu. Ngoại
đạo, Bà la môn nương Bồ tát mới ra khỏi sanh tử. Như đại trưởng giả của cải vô
lượng cho mọi người đều được sử dụng. Cũng vậy, hữu tình sanh tử đều nương tựa
vào các đại Bồ tát này. Như đại trưởng giả muốn vượt qua khỏi hiểm nạn phải nhờ
nhiều bạn, đầy đủ vật thực ăn uống mới qua khỏi hiểm nạn được. Cũng vậy, các
đại Bồ tát này muốn ra khỏi hiểm nạn sanh tử chắc chắn phải nhờ phước tuệ bảo
vệ các hữu tình, mới ra khỏi thế gian đến Nhất thiết trí. Như người đi xa cần
đem nhiều của báu mới được lợi. Cũng vậy các đại Bồ tát từ biển sanh tử đến
Nhất thiết trí cần tu tập phước báu, phước tuệ thật nhiều mới mau chứng Nhất
thiết trí. Như người thế gian tham cầu của vật không hề nhàm chán. Cũng vậy, Bồ
tát ưa cầu thắng pháp, tâm không nhàm chán.
Như người
dẫn đường cần có bốn việc hơn người: Giàu có, địa vị cao, tài giỏi, lời nói có
uy tín. Cũng vậy, các Bồ tát giàu có công đức, ở địa vị tôn quý, được pháp tự
tại, lời nói chắc chắn. Như người biết cách dẫn đường đi đến thành lớn. Cũng
vậy, các vị Bồ tát hướng dẫn hữu tình đến Nhất thiết trí.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã
Ba la mật biết rõ con đường nên đi, con đường không nên đi, nơi tà, nơi chánh,
nơi cong, nơi ngay, nơi an ổn, nơi nguy hiểm, nơi có nước, nơi không có nước, hoặc
nơi có nguy hiểm thì đều biết con đường thoát ra. Các đại Bồ tát này biết rõ
các con đường không hề nhầm lẫn, đã hướng dẫn thì không trái với căn cơ của
chúng sanh, vì người cầu Đại thừa nói đạo vô thượng chẳng nói đạo Độc giác,
Thanh văn. Vì người cầu Độc giác nói đạo Độc giác không nói đạo Bồ tát, Thanh
văn. Vì người cầu Thanh văn nói đạo Thanh văn không nói đạo Bồ tát, Độc giác.
Vì người chấp trước ngã nói đạo vô ngã. Vì người chấp trước pháp, nói đạo pháp
Không. Vì người chấp hai bên nói trung đạo. Vì người mê loạn nói đạo chỉ, quán
để họ hết mê loạn. Vì người hý luận nói đạo chơn như để họ hết hý luận. Vì
người chấp trước sanh tử nói đạo Niết bàn để họ ra khỏi thế gian. Vì người theo
đường mê nói đạo chơn chánh để họ xa lìa đường tà vạy.
Này Thiên
vương! Đây là đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật biết rõ đường tà, đường
chánh để hướng dẫn hữu tình đi đứng thông suốt.
Thích nghĩa:
(1). Pháp giới: (法界) Phạm:
Dharma-dhàtu. Pàli: Dhamma-dhàtu. Hán âm: Đạt ma đà đô. Chỉ cho tất cả đối
tượng(cảnh sở duyên) của ý thức, 1 trong 18 giới. Cứ theo luận Câu xá quyển 1
thì 3 uẩn: Thụ, tưởng, hành, cùng với vô biểu sắc và vô vi pháp, gọi là Pháp
giới. Trong 12 xứ thì Pháp giới được gọi là Pháp xứ. Còn trong 18 giới thì 17
giới kia cũng được gọi là Pháp giới. Bởi vậy, theo nghĩa rộng thì Pháp giới là chỉ cho tất cả các pháp hữu vi và vô vi. Theo Hoa nghiêm
Kinh thám huyền ký quyển 18 thì Pháp giới có 3 nghĩa: 1- Nhân sinh ra các Thánh
pháp. 2- Thể tính chân thực của các pháp. 3- Các pháp đều có phần hạn của
chúng, do đó mà phân biệt được tướng trạng của mỗi pháp. Pháp giới cũng chỉ cho chân như hoặc chỉ cho tất cả các pháp. Theo
Phổ Hiền hạnh nguyện thì Pháp giới có 5 môn: Pháp giới hữu vi, pháp giới vô vi,
pháp giới vừa hữu vi vừa vô vi, pháp giới chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi và
pháp giới vô chướng ngại, do đó mà lập ra 5 lớp Pháp giới khác nhau là: Pháp
giới pháp, pháp giới nhân, pháp giới nhân pháp dung hợp, pháp giới nhân pháp
đều vắng bặt và pháp giới không chướng ngại. Chủng loại của pháp giới tuy nhiều nhưng tất cả đều qui về Nhất chân
pháp giới, đây chính là tâm thanh tịnh nguyên sơ của chư Phật và chúng sinh,
cũng gọi là Nhất tâm pháp giới, Nhất chân vô ngại pháp giới. Nếu đứng về
phương diện hiện tượng và bản thể mà nhận xét, thì Pháp giới có thể được chia
làm 4 nghĩa, gọi là Tứ pháp giới. Đó là: 1- Sự pháp giới: Hiện tượng giới bao
gồm muôn pháp thiên sai vạn biệt, mỗi pháp đều có tự thể riêng và phần hạn khác
nhau. 2- Lý pháp giới: Hiện tượng các pháp tuy nhiều, nhưng thể tính chân thực của
chúng thì thường trụ bất biến, bình đẳng nhất như, là cảnh giới tuyệt đối. 3-
Lý sự vô ngại pháp giới: Giữa hiện tượng và bản thể có sự quan hệ nhất thể bất
nhị, mỗi mỗi pháp tương tức tương nhập, viên dung vô ngại. 4- Sự sự vô ngại
pháp giới: Tất cả mọi hiện tượng đều tác dụng hỗ tương, một tức tất cả, tất cả
tức một, trùng trùng vô tận, sự sự vô ngại. Mật giáo lấy 6 yếu tố (6 đại): Đất,
nước, lửa, gió, không, thức làm thể tính của pháp giới; 6 yếu tố này là thân
Tam ma da của đức Đại nhật Như lai. Cung điện của Ngài là Pháp giới cung; định
vị của Ngài là Pháp giới định, ấn khế của Ngài là Pháp giới định ấn, năng lực
gia trì của Ngài gọi là Pháp giới gia trì. Trong 5 trí thì Đại nhật Như lai
biểu thị Pháp giới thể tính trí. Ngoài ra, tông Thiên thai gọi chung 10 giới:
Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ
tát và Phật là Thập pháp giới. Đây là nói theo nghĩa phần hạn sai biệt của các
tướng pháp giới. Lại nữa, Pháp giới cũng là 1 trong 12 tên của Thực tướng. Mười hai tên là: Chân như, Pháp giới, Pháp
tính, Bất hư vọng tính, Bất biến dị tính, Bình đẳng tính, Lý sinh tính, Pháp
định, Pháp trụ, Thật tế, Hư không và Bất tư nghị giới. [X. Kinh Tạp A Hàm Q.16;
hội Bị giáp trang nghiêm trong Kinh Đại Bảo Tích Q.23; Kinh Đại Bát NhãQ.360;
Kinh Hoa Nghiêm Q.1, 3 (bản dịch cũ); luận Đại Tì Bà Sa Q.71; luận Đại thừa
khởi tín; luận Biện trung biên Q.thượng; luận Bồ Đề Tâm]. - Phật Quang từ điển.
Đây có thể gọi là những bản chỉ dẫn. Khó có thể có một
định nghĩa chân xác riêng biệt về các từ như pháp giới, pháp tánh, chơn như,
thật tế... khi chưa chứng quả Phật. Ở đây có thể định nghĩa một cách vắn tắt
pháp giới là chỗ nương của các pháp. Chỗ nương này tràn đầy trong vũ trụ, chân
thật, không hư vọng cũng gọi là như của các pháp. Hy vọng phẩm này có thể giải
thích rõ ràng hơn. TB
(2). Nguyên văn đoạn Kinh này bằng chữ Hán là “天thiên 王vương. 即tức 是thị 諸chư 法pháp 真Chân 如Như”, nên hai bản dịch ĐBN của HT Thích Trí Nghiêm
đều dịch là “Thiên vương, tức là chơn như các pháp”. Trong khi Kinh TTVBN, nguyên văn chữ Hán là "大王,所謂如如" nên dịch:
“Đại vương, đó là Như Như”. Kinh
TTVBN do Ngài Nguyệt Bà Thủ Na lúc nào cũng dịch chơn như là Như Như.
(3). Hậu đắc trí: (後得智) Phạm:
Pfwỉha-labdha-jĩàna. Cũng gọi Vô phân biệt trí, Hậu đắc vô phân biệt trí. Đối
lại: Căn bản trí, Căn bản vô phân biệt trí. Trí tuệ có được sau trí Căn bản vô
phân biệt. Vì trí này là do trí căn bản dẫn dắt, có thể thấu suốt cảnh y tha
như huyễn, cho nên gọi là Như lượng trí, Quyền trí, Tục trí. Lại trí căn bản
không phải là năng phân biệt, sở phân biệt, còn trí này thì là sở phân biệt,
năng phân biệt. Trong 10 Ba la mật, Hậu đắc trí được phối với Phương tiện,
Nguyện, Lực và Trí. Cứ theo Nhiếp đại thừa luận thích quyển 8 của Ngài Vô Tính,
thì trí này có thể chia làm 5 loại: 1. Thông đạt tư trạch(suy xét, chọn lựa,
thông suốt): Hậu đắc trí suy xét, quyết định chọn pháp hiện quán chân thực, mà
được thông suốt, tức là ở trong tâm tự xét việc ấy đúng như vậy. 2. Tùy niệm tư
trạch (theo ý nghĩ
mà suy xét lựa chọn): Tùy theo niệm thông suốt đó mà nghĩ rằng Mình đã từng
thông suốt việc ấy. 3. An lập tư trạch: Đem chỗ mình đã thông suốt trình bày
cho người khác biết. 4. Hòa hợp tư trạch: Dùng tướng chung quán xét duyên theo
tất cả pháp mà tiến đến chuyển y, hoặc chuyển y rồi, lại khởi lên pháp quán
này. 5. Như ý tư trạch: Trí hiện tiền tùy theo điều suy nghĩ sẽ được như ý, như
nghĩ đất là vàng thì trở thành vàng, v.v...… [X. Nhiếp đại thừa luận thích Q.8
(bản dịch đời Đường); Phật địa Kinh luận Q.3; luận Thành duy thức Q.10]- Phật
Quang Từ điển.
Những định nghĩa này phải nhờ tụng đọc nhiều kinh điển
khác nhau mới có thể thâm nhập được. TB
(4). Kinh TTVBN nói: “Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba
la mật, có đủ Vô biên từ, Vô phân biệt từ, Pháp từ, Bất tức từ, Bất não từ, Lợi
ích từ, Bình đẳng từ, Biến ích từ, Xuất thế từ, thành tựu các Đại từ như thế”.
(5). Vô sư trí: Tự giác ngộ, không do ai chỉ dạy, do
giới định huệ mà được trí này; phản nghĩa với hữu sư trí: Trí có được do người
khác chỉ dạy hay thu nhặt từ bên ngoài.
(6). Tam đồ (三途・三塗): Ba đường gồm hỏa đồ, đao đồ và huyết đồ, đồng nghĩa
với Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh của Ba Đường Ác, do vì các nghiệp ác của
thân, khẩu và ý gây ra nên dẫn đến kết quả sanh vào ba đường này. 1- Hỏa Đồ
(tức đường Địa Ngục): Do vì chúng sanh của cõi này thường chịu nỗi khổ bức
bách, nóng bỏng của lò sôi, vạc cháy, hoặc do vì nơi ấy lửa tích tụ rất nhiều,
nên có tên gọi là Hỏa Đồ. 2- Đao Đồ (tức đường Ngạ Quỷ): Do chúng sanh ở cõi này
thường chịu cái khổ bức bách của đao gậy nên có tên gọi như vậy. 3- Huyết Đồ
(tức đường Súc Sanh): Do chúng sanh ở cõi này tranh giành cấu xé lẫn nhau,
người mạnh lấn áp kẻ yếu, uống máu ăn thịt nhau, nên có tên gọi như vậy. (Phật
học Tinh Tuyển).
Sơ giải:
1. Phẩm “Pháp Giới”, quyển 567 của Hội thứ VI, này nói: “Muốn
biết pháp giới phải tu như thế nào? Câu trả lời trực tiếp là phải tu hành chánh
đạo”.
Không tu chánh đạo thì không thể chứng pháp giới. Đó
là điều kiện cần và đủ để nhập pháp giới. Không hội đủ điều kiện này mà nói đến
chứng đắc pháp giới là điều không tưởng!
Phật bảo: “Thiên vương
nên biết! Các Bồ tát này có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, vui mừng kính thờ,
tưởng như Phật. Vì gần gũi bạn lành nên xa lìa biếng nhác, diệt trừ tất cả pháp
ác bất thiện, tăng trưởng căn lành. Đã
diệt phiền não, xa lìa pháp chướng ngại, thân, ngữ, ý nghiệp đều được thanh
tịnh; do thanh tịnh nên liền sanh kính trọng; vì tâm kính trọng, tu tập hạnh
Không; vì tu tập hạnh Không nên xa lìa các kiến; vì xa lìa các kiến nên tu hành
chánh đạo; tu hành chánh đạo nên có thể thấy pháp giới”.
Do tu hành hạnh Không, xa lìa các kiến mà thấy được
pháp giới. Đại cương là như vậy, nhưng không có bất cứ một yếu tố lẻ loi, đơn
độc nào có thể đưa vào pháp giới. Bởi vì, pháp giới là một sự phối hợp của
nhiều thành tố mà chỉ có bậc giác ngộ chứng biết, phàm phu dễ dầu gì vói tới.
Nên nói đến chứng nhập pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, chân như, thật
tế... chẳng khác gì người mù sờ voi.
Đó là cái khó không thể chỉ thẳng, nên phải đi vòng
vòng, phải đi vòng quanh như sau:
1- Thế nào là pháp giới?
- Quyển 532, phẩm “Diệu
Tướng”, Hội thứ III, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bạch:
“... Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải
sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc cho đến thức tức là pháp giới, pháp
giới tức là sắc cho đến thức. Nói rộng cho đến pháp giới chẳng phải là pháp
hữu vi, vô vi, cũng không lìa pháp hữu vi, vô vi. Pháp hữu vi, vô vi tức là
pháp giới, pháp giới tức là pháp hữu vi, vô vi”.
Đây có thể xem là một lối giải thích
gián tiếp về pháp giới. Nói cho đủ thì gồm cả 12 xứ và 18 giới. Vậy, Pháp giới
không riêng về uẩn xứ giới mà cũng không lìa uẩn xứ giới. Uẩn xứ giới tức là
pháp giới, pháp giới tức là uẩn xứ giới. Nói
như vậy có nghĩa ba yếu tố này tạo nên mọi hiện hữu thế gian, gọi chung là cảnh
giới, sinh địa, môi trường sống hay là chỗ nương, đối tượng của ấm, xứ, giới.
Ấm là năm uẩn (hay sắc thọ tưởng hành thức), xứ là căn và trần (gồm sáu căn:
Nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý và sáu trần: Sắc thanh hương vị xúc pháp); giới nghĩa
là chủng loại, có 18 chủng loại đều có tự tánh khác nhau (Sáu thức năng y, 6
căn sở y và 6 cảnh sở duyên). Đó là cửa ngỏ tiếp xúc của nhân sinh và vũ trụ.
Tất cả hiện hữu kể cả con người đều bao gồm trong ấy.
- Một đoạn
Kinh khác của phẩm “Các Pháp Bình Đẳng”, quyển 385-386, Hội thứ I, ĐBN tuy dài, thuyết về pháp giới như sau:
“Tất cả pháp là pháp giới. Tất cả pháp đều nhập vào pháp giới.
Như Lai dù có ra đời, hoặc chẳng ra đời, các pháp vẫn như vậy, đều nhập pháp
giới, không có tướng sai biệt, chẳng phải do Phật thuyết. Vì sao? Vì tất cả
pháp thiện hoặc pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký hoặc pháp vô ký, hoặc pháp hữu
lậu hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu
vi hoặc pháp vô vi, đều nhập pháp giới tánh không, vô tướng, vô vi. Cho nên,
đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, muốn học pháp giới, nên học tất cả pháp. Nếu
học tất cả pháp tức là học pháp giới. Nếu phân biệt pháp tức là phá hoại pháp”.
(Q. 385, ĐBN)
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều nhập pháp giới, không hai, không
khác, thì tại sao đại Bồ tát phải học pháp này hay pháp khác? Phải học lục Ba
la mật, học tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, học 37 pháp trợ đạo, 18 pháp
bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí? Cũng học đạo Bồ
tát, quả vị Giác ngộ tối cao? Tại sao đại Bồ tát phải học thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật? Học như thế rồi, đắc Nhất thiết trí trí, biết tất cả
pháp, tất cả chủng tướng?”
Phật dạy:
- “Này Thiện Hiện! Chẳng phải trong pháp giới có các thứ phân biệt
như thế. Đại Bồ tát không do các thứ phân biệt này mà hành điên đảo, trong cái
không hý luận, khởi các hý luận. Vì sao? Vì trong chơn pháp giới hoàn toàn
không có phân biệt hý luận.
Pháp giới chẳng phải sắc, cũng chẳng lìa sắc; pháp giới chẳng phải thọ,
tưởng, hành, thức, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức. Pháp giới tức là sắc,
sắc tức là pháp giới; pháp giới tức là thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng,
hành, thức tức là pháp giới. Pháp giới chẳng phải 12 xứ, cũng chẳng lìa 12
xứ; pháp giới tức là 12 xứ, 12 xứ chính là pháp giới. Đối với 18 giới, tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất
thiết trí, quả vị Giác ngộ tối cao… cũng lại như thế.
Trong chơn pháp giới không có tất cả các thứ phân biệt hý luận.
Sắc chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa sắc riêng có pháp giới; thọ,
tưởng, hành, thức chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức
riêng có pháp giới. Sắc tức là pháp giới, pháp giới tức là sắc; thọ, tưởng,
hành, thức tức là pháp giới, pháp giới tức là thọ, tưởng, hành, thức v.v…
Như vậy có thể nói: Pháp thế gian chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa
pháp thế gian riêng có pháp giới; pháp xuất thế gian chẳng phải pháp giới, cũng
chẳng lìa pháp xuất thế gian riêng có pháp giới. Pháp thế gian tức là pháp
giới, pháp giới tức là pháp thế gian, pháp xuất thế gian tức là pháp giới, pháp
giới tức là pháp xuất thế gian”. (Q.386, ĐBN)
Tóm lại,
tất cả pháp đều nằm trong pháp giới. Vì vậy mới nói “người hội muôn vật làm
mình, chính là Thánh nhân”.
Một đoạn kinh được xem là thú vị về
pháp giới nói trong phần “Mạn Thù Thất
Lợi”, quyển 574, Hội thứ VII, ĐBN. Xá lợi Tử hỏi Mạn Thù Thất Lợi:
- “Mạn Thù Thất Lợi! Đối với pháp giới, lẽ nào Phật không chứng ư?
- Đại đức! Không phải vậy. Vì sao? Vì Phật tức pháp giới, pháp giới tức Phật. Không lẽ Pháp giới lại
chứng pháp giới.
Lại, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp không, nói là pháp giới.
Tức pháp giới đây nói là Bồ đề. Pháp giới Bồ đề đều lìa tánh tướng, do đây nên
tất cả pháp không. Tất cả pháp không, Bồ đề, pháp giới, đều là cảnh giới Phật,
không hai không riêng. Vì không hai không riêng nên chẳng thể hiểu rõ. Vì chẳng
thể hiểu rõ nên không có ngôn thuyết. Vì không ngôn thuyết nên chẳng thể thi
thiết hữu vi hay vô vi, có hay chẳng có thảy”.
Mạn Thù Thất Lợi hay Văn
Thù Sư Lợi là một bậc đại trí đã thấy pháp giới như thế: Phật tức là pháp giới,
pháp giới tức là Phật. Nói khác, Phật đã
nhập pháp giới vì Phật giác ngộ, nên pháp giới và Phật chỉ là một. Tất cả
pháp Không, Bồ đề, pháp giới, đều là cảnh giới Phật, không hai không riêng. Vì
không hai không riêng nên chẳng hiểu rõ. Vì chẳng hiểu rõ nên không ngôn
thuyết. Nếu không ngôn thuyết thì nói nữa làm gì?
Phần “Na Già
Thất Lợi”, quyển 576, Hội thứ VIII, ĐBN, Mạn Thù Thất Lợi nói:
- “Chẳng phải
chơn pháp giới có hiện có mất, có co có giãn. Vì sao? Vì chơn pháp giới lìa
tướng, vắng lặng, không hiện không mất, không thể phân biệt, không thể hý luận,
không nương không trụ, không lấy không bỏ, không động không chuyển, không nhiễm
không tịnh. Như cõi hư không không động không chuyển, không lấy không bỏ, không
nương không trụ, không thể hý luận, không thể phân biệt, không hiện không mất. Các pháp cũng thế, tự tướng vốn Không,
tánh ấy cũng chẳng có tướng, bất khả đắc. Nếu tướng của các pháp có thể đắc thì
Phật vào Niết bàn cũng có thể đắc.
Tất cả pháp không có tàng chứa, không có thủ giữ, không sắc, không thấy,
không đối, không tướng, bản lai vắng lặng. Cho nên hằng hà sa số chư Phật mặc
dù đã vào Niết bàn nhưng không diệt một pháp. Nghĩa là không diệt sắc uẩn và diệt thọ tưởng hành thức uẩn, cũng
không diệt 12 xứ, 18 giới. Cũng không diệt địa, thủy, hỏa, phong, không, thức
giới. Như vậy, chư Phật tuy vào Niết bàn nhưng không diệt một pháp nào để vào
Niết bàn.
Có những kẻ muốn khiến cho Niết bàn có pháp diệt, tức là muốn làm cho
cõi hư không kia cũng diệt. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh, bản lai tịch diệt, tự
tánh vắng lặng, cực vắng lặng, nên không thể diệt”.
Diệt là diệt cái tâm chấp ngã chấp
pháp, làm sao diệt được các pháp. Kinh cũng thường nói tất cả pháp nhập vào
pháp giới. Pháp giới, pháp tánh, thật tế... cùng chơn như thật tướng không hai
không khác. Đó là lý do tại sao Hội thứ VI, nói về pháp giới, pháp tánh, bình
đẳng tánh, rồi Hội thứ VII, phần “Mạn Thù Thất Lợi” cũng nói những pháp này.
Đến Hội thứ VIII, phần “Na Già Thất Lợi” cũng đề cập tới chơn pháp giới. Biết
như thật các pháp là biết cái “chân như thật tướng”, nhưng chơn như thật tướng
này chẳng khác pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng
tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư
không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác
giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật
tế… Hiểu và thâm nhập các pháp này tức giác ngộ. Vậy, Bồ tát muốn giác
ngộ phải tu chánh đạo, tu Bồ tát hạnh hay tu tất cả các pháp Phật.
2- Tại sao
khi nói đến pháp giới lại đề cập chơn như, thật tế? Các pháp đó không thể tách rời nhau được, vì tánh
thì khác nhau nhưng thể chỉ là một. Trời Tối Thắng bạch Phật:
- “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là
pháp giới?
Phật bảo trời Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Pháp giới chính là tánh chẳng hư vọng.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng hư vọng?
- Này Thiên vương! Tức là tánh chẳng đổi khác.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng đổi khác?
- Này Thiên vương! Tức là chơn
như của các pháp.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chơn như của các pháp?
- Thiên vương
nên biết! Như này sâu xa vi diệu chỉ có trí biết, chẳng phải do lời nói biết
được. Vì sao? Vì các pháp như (hay chơn như của tất cả pháp) vượt văn
tự, lìa ngữ ngôn; tất cả sự diễn đạt chẳng thể diễn đạt nổi; lìa hý luận, dứt
phân biệt, không đây kia; lìa tướng vô tướng, xa lìa suy lường, vượt cảnh suy
lường, không tưởng không tướng, vượt khỏi hai cảnh, xa lìa người ngu, lìa cõi
phàm tục, vượt khỏi cảnh ma, xa lìa mê chướng, thức không thể biết, trụ không
chỗ trụ, vắng lặng Thánh trí và cảnh giới của hậu đắc trí vô phân biệt, không
ngã, ngã sở, cầu chẳng thể được, không thủ, không xả, không nhiễm, không đắm,
thanh tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh chẳng biến đổi; hoặc Phật ra đời hay
chẳng ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ. (Q.567,
ĐBN)
Thiên vương nên biết! Đó là pháp
giới. Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu chứng pháp giới, hành
nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó hành, làm cho các hữu tình đều được thông suốt.
Này Thiên vương! Đấy gọi Thật tế
Như như của Bát nhã Ba la mật, tướng không phân biệt, bất tư nghì giới, cũng
gọi Chơn không, Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí, pháp giới không hai”.
Chơn như hay các pháp như bởi vì nó
như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như nên gọi là Như. Pháp giới là chỗ
nương của các pháp mà các pháp là Như trong nghĩa chân như thật tướng. Các pháp
có thật thể như vậy thì chỗ nương cũng phải có thật thể như vậy. Nên đoạn Kinh
trên Phật bảo: “Pháp giới chính là chẳng hư vọng. Nhưng thế nào là
chẳng hư vọng? Phật bảo: Chính là không đổi khác. Thế nào là chẳng thể đổi
khác? Phật trả lời: Tức là chơn như của các pháp”.
Rồi Phật giải thích một tràng thế
nào là chơn như của các pháp: “Pháp như lìa văn tự, ngôn thuyết...
xa lìa mê chướng, thức không thể biết, trụ không chỗ trụ, vắng lặng Thánh trí
và cảnh giới của hậu đắc trí vô phân biệt... không thủ, không xả, không nhiễm,
không đắm, thanh tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh chẳng biến đổi; hoặc Phật
ra đời hay chẳng ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ. Rồi Phật kết luận: Đó là pháp
giới”.
Như trên đã nói chơn như, pháp giới,
pháp tánh, thật tế... mỗi thứ một vẻ nhưng
bản thể chỉ là một, nên không thể phân biệt, không thể tách rời chơn như với
pháp giới hay thật tế. Nên cuối cùng phẩm này, Phật bảo: “Này Thiên
vương! Đấy gọi Thật tế Như như của Bát nhã Ba la mật, tướng không phân biệt,
bất tư nghì giới, cũng gọi Chơn không, Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí,
pháp giới không hai”.
Vì vậy, thập nhị chân như mới có 12
tên: Chân như, pháp giới, pháp tính, bất hư vọng
tính, bất biến dị tính, bình đẳng tính, ly sinh tính, pháp định, pháp trụ, thật
tế, hư không giới, bất tư nghị giới. Tuy có 12 tên nhưng bản thể không hai không
khác, nên xếp với nhau cùng chung một thể loại. Vả lại, phạm trù của pháp giới
quá mênh mông. Vì vậy, nếu không có tầm mắt bao quát làm sao thấy được pháp
giới. Đây là nét đặc thù của thập nhị chân như hay còn gọi là 12 tên khác của
Thực tướng.
Cứ tưởng tượng xem tất cả nước: Mưa,
suối, cống rãnh, ao hồ đều đổ vào sông, rồi nước sông đổ ra bể. Vào tới biển,
tới đại dương rồi, nước không còn phân biệt, chỉ còn một mực bình đẳng như như.
Nhưng không phải tất cả thứ nước đó… phải đợi vào biển cả hay đại dương mới
được bình đẳng như như. Tất cả mực nước của các thứ nước đó vốn đã như như bình
đẳng từ trước. Cũng vậy tất cả pháp cũng vốn như như bình đẳng, nên khi đã nhập
vào pháp giới cũng như như bình đẳng không khác. Đó là ý nghĩa tại sao khi nói
về pháp giới lại đề cập đến chân như hay bình đẳng là vậy. Thâm nhập và chứng
được nét đặc thù này thì hiểu được thập nhị chân như hay thật tướng của vạn
hữu...
3- Do đâu mà có được cái thấy biết
đúng?
Do học và thực hành Bát nhã Ba la
mật nên thấy biết như thật các pháp đều không. Không là đệ nhất nghĩa không, mà
trong đó tướng không chẳng thể nắm bắt được, không thủ không trước, không chấp tướng không cũng không nương tựa
vào không. Vì, không thủ trước nên đối với không, không bị đọa lạc. Thực hành
Bát Nhã như vậy thì xa lìa các tướng, không thấy tướng trong ngoài, lìa tướng
hý luận, lìa tướng phân biệt, lìa tướng tìm tòi, lìa tướng tham trước, lìa
tướng của cảnh giới, lìa tướng phan duyên, lìa tướng năng tri và sở tri.
Đó là cái thấy biết siêu xuất do tu chánh đạo, chứng Bát Nhã và đắc
hậu đắc vô phân biệt trí và nhờ đó mà thấy tất cả pháp đều như như bình đẳng
hay còn gọi là chơn như thật tướng các pháp như đã nói ở trên.
Tới đây chúng ta có thể trả lời câu
hỏi: Do đâu mà có được cái thấy biết
đúng? Câu trả lời thẳng là: Biết như thật các pháp đều không. Không này là chân
không hay hư không giới là một trong
thập nhị chân như. Đó là lý do tại sao học
chánh pháp thì ngộ nhập chân như, pháp giới, pháp tánh, thật tế...
Tóm lại, tri nhận được thật tướng
của tất cả pháp trong cõi sống chung quanh ta thì gọi là chứng pháp giới, tức
chứng chỗ nương, cảnh giới của tất cả pháp chân thật. Cảnh giới của tất cả pháp
chân thật cũng chính là chân như. Vì vậy, pháp giới với chân như đồng một như,
không hai không khác. Nên, Ngài Tăng Triệu, một tư tưởng gia, một luận gia nổi
tiếng cùng thời với Ngài Cưu Ma La Thập, mới nói rằng: “Vạn vật cùng ta đồng gốc, cây cỏ cùng ta
đồng nguồn”. Không biết tôi nhớ như
thế có đúng không? Đó là lối giải thích mà người ta thường nghe: Thâm nhập được
chân như, pháp giới, pháp tánh... thì được xem là giác ngộ. Nên nói: Vạn vật cùng ta đồng gốc, cây cỏ cùng ta đồng
nguồn, tất cả cùng hiện hữu và cùng tăng trưởng chẳng có gì lộn lạo.
3. Bồ tát thị hiện để hóa độ chúng sanh như thế nào?
Cuối quyển
567, Kinh nói về bốn tâm vô lượng tức là phương tiện thiện xảo của Bồ tát trong
việc hóa đạo của các Ngài. Đó là đại Từ, đại Bi, đại Hỷ và đại Xả. Bốn tâm rộng
lớn này chúng ta đã học trong phần thứ I Tổng luận và trong các Hội trước rồi,
nên không cần lập lại. Bây giờ, chúng ta tụng tiếp quyển 568.
Đầu quyển 568, Bồ tát thị hiện các tướng trong
việc hóa độ chúng sanh, đồng thời nói về sự học tập tu hành để có đủ khả năng
công đức thực hiện việc hóa độ đó.
1- Tướng thị hiện của Chư Bồ tát:
Hình như tất cả chư Bồ tát trong thế gian thị hiện gần như giống nhau trong cõi
đời này. Để cứu độ hữu tình nên các Ngài dùng oai lực phương tiện thiện xảo,
thị hiện các tướng giáo hóa bằng cách nhập vào thai mẹ cho đến nhập Niết bàn: Thị hiện làm trẻ con, thị hiện lập gia
đình, thị hiện xuất lên núi tuyết tu khổ hạnh, thị hiện ngồi dưới cội Bồ đề,
thị hiện học đạo và thuyết pháp, chuyển pháp luân, rồi thị hiện viên tịch vào
Niết bàn v.v...
2- Bồ tát “Do tôn trọng chánh pháp nên đã vì người khác giảng
thuyết sâu rộng, vì hộ chánh pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Thân nghiệp, ngữ
nghiệp, ý nghiệp đều thanh tịnh. Do nghiệp thanh tịnh nên lìa các chướng ngại.
Do lìa chướng ngại nên tâm thường hoan hỷ, do tâm hoan hỷ nên siêng năng tinh
tấn. Tâm tánh chánh trực, niệm trí viên mãn. Do niệm trí viên mãn nên biết đời
sống quá khứ, một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến vô số kiếp,
các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, rõ biết như thật về các nơi sanh thời
quá khứ, biết rõ đời trước gần gũi bạn lành nên đối với ba việc nghe, thấy,
niệm về chư Phật chẳng quên mất, thường ưa nghe pháp, cúng dường Tăng bảo không
lúc nào để thời gian trống rỗng trôi qua; đối với việc cúng dường cung kính lễ
bái Phật, Bồ tát không bỏ qua lúc nào; đi đứng nằm ngồi luôn luôn lắng nghe học
hỏi”.
Đối với chúng sanh: ... “Người cầu
Đại thừa nói đạo vô thượng chẳng nói đạo Độc giác, Thanh văn. Vì người cầu Độc
giác nói đạo Độc giác không nói đạo Bồ tát, Thanh văn. Vì người cầu Thanh văn
nói đạo Thanh văn không nói đạo Bồ tát, Độc giác. Vì người chấp trước ngã nói
đạo vô ngã. Vì người chấp trước pháp, nói đạo pháp Không. Vì người chấp hai bên
nói trung đạo. Vì người mê loạn nói đạo chỉ quán để họ hết mê loạn. Vì người hý
luận nói đạo chơn như để họ hết hý luận. Vì người chấp trước sanh tử nói đạo
Niết bàn để họ ra khỏi thế gian. Vì người theo đường mê nói đạo chơn chánh để
họ xa lìa đường tà vạy”.
Đọc tụng, thọ trì tới đây ai cũng có
thể hiểu, nên không cần nói thêm chi tiết nữa!
Thật may mắn cho tất cả chúng sanh nào đã tụng đọc
được bài pháp quan trọng này. Vậy, nhân đây xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh
đều được nhập vào nhất chơn pháp giới.
---o0o---