XXVII. PHẨM
“KIÊN CỐ”
(Phần cuối Q.553 đến phần đầu Q.554, Hội thứ IV,
TBBN).
Tóm lược:
Lúc ấy, Ngài Xá lợi Tử hỏi Ngài
Thiện Hiện:
- Khi các đại Bồ tát thực hành Bát
Nhã sâu xa là hành pháp bền chắc (kiên
cố) hay hành pháp chẳng bền chắc?
Thiện Hiện thưa:
- Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã
sâu xa là hành pháp không bền chắc.
Vì sao? Xá lợi Tử! Vì Bát Nhã sâu xa và tất cả pháp hoàn toàn không có tánh bền
chắc. Khi các đại Bồ tát thực hành Bát Nhã sâu xa thì ngay nơi Bát Nhã sâu xa
và tất cả pháp còn chẳng thấy có pháp không bền chắc có thể đắc, huống là thấy
có pháp bền chắc có thể đắc.
Bấy giờ có vô lượng Thiên tử cõi
Dục, Thiên tử cõi Sắc đồng nghĩ: Nếu các thiện nam tử Bồ tát thừa v.v… có thể
phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì tuy thực hành nghĩa lý sâu xa
của Bát nhã Ba la mật nhưng thường không chứng đắc Niết bàn, không rơi vào địa
vị Thanh văn, Độc giác. Do nhân duyên này nên loài hữu tình này rất là hiếm có,
thường làm được những việc khó làm, phải nên kính lễ. Vì sao? Vì các thiện nam
tử Bồ tát thừa v.v… này tuy hành pháp tánh nhưng ngay nơi đó không chứng đắc.
Khi ấy, Thiện Hiện biết tâm niệm các
Thiên tử nên bảo họ:
- Các thiện nam tử Bồ tát thừa v.v…
này không chứng Niết bàn, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, cũng chưa
phải là rất hiếm có. Nếu đại Bồ tát nào biết tất cả pháp và các hữu tình hoàn
toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc, mà vẫn phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, mặc áo giáp tinh tấn, thề độ vô lượng, vô số, vô biên hữu tình,
giúp họ được vào cảnh giới Vô dư bát Niết bàn, thì các đại Bồ tát này mới thật
là hiếm có, thường làm được việc khó làm.
Thiên tử nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào tuy biết hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc mà vẫn phát tâm
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc giáp tinh tấn vì muốn điều phục các loài
hữu tình thì giống như có người muốn điều phục hư không. Vì sao? Này Thiên tử!
Vì hư không ly, nên biết tất cả hữu tình cũng ly. Hư không Không, nên biết tất
cả hữu tình cũng Không. Hư không không chắc thật, nên biết tất cả hữu tình cũng
không chắc thật. Hư không không sở hữu, nên biết tất cả hữu tình cũng không sở
hữu. Do nhân duyên này, đại Bồ tát đó mới thật là hiếm có, thường làm được
những việc khó làm.
Thiên tử nên biết! Đại Bồ tát này
mặc giáp thệ nguyện vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình hoàn
toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc, thì giống như có kẻ mặc giáp mũ chiến đấu
cùng hư không.
Thiên tử nên
biết! Đại Bồ tát này mặc giáp bị thệ nguyện vì muốn lợi ích tất cả hữu tình,
nhưng các hữu tình và giáp mũ đại thệ nguyện hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất
khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên giáp mũ đại nguyện này
phải biết cũng ly. Vì hữu tình Không, nên giáp mũ đại nguyện này phải biết cũng
Không. Hữu tình không bền chắc, nên giáp mũ đại nguyện này phải biết cũng không
bền chắc. Hữu tình vô sở hữu, nên giáp mũ đại nguyện này phải biết cũng không sở
hữu.
Thiên tử nên
biết! Việc đại Bồ tát này điều phục lợi ích hữu tình cũng bất khả đắc. Vì sao?
Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng
ly. Hữu tình Không, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng Không. Hữu tình
không bền chắc, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng không bền chắc.
Hữu tình vô sở hữu, nên việc điều phục phúc lợi này phải biết cũng vô sở hữu.
Thiên tử nên
biết! Các đại Bồ tát cũng vô sở hữu. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly,
nên các đại Bồ tát phải biết cũng ly. Hữu tình Không, nên các đại Bồ tát phải
biết cũng Không. Hữu tình không chắc thật, nên các đại Bồ tát phải biết cũng
không chắc thật. Hữu tình vô sở hữu, nên các đại Bồ tát phải biết cũng vô sở
hữu.
Thiên tử nên
biết! Nếu đại Bồ tát nào nghe như vậy tâm không chìm đắm, cũng không lo buồn,
hối hận, chẳng kinh, chẳng sợ, thì nên biết đại Bồ tát này là người có thể thực
hành Bát Nhã sâu xa.
Vì sao? Này Thiên tử! Vì hữu tình
ly, nên phải biết sắc uẩn cũng ly.
Hữu tình ly, nên phải biết thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng ly. Hữu tình ly, nên
phải biết nhãn xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý
xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết 12 xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải
biết 18 giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết các thọ do nhãn xúc làm duyên
sanh ra cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý
xúc làm duyên sanh ra cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết địa giới cũng ly. Hữu
tình ly, nên phải biết thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng ly. Hữu tình ly,
nên phải biết nhân duyên cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết đẳng vô gián
duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết vô
minh cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ,
ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết pháp nội không cho đến pháp
vô tính tự tính không cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết chơn như cho đến cảnh
giới bất tư nghì cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết Thánh đế khổ cho đến Thánh
đế đạo cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh
đạo cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô
nguyện cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết tám giải thoát cho đến mười biến xứ
cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng ly.
Hữu tình ly, nên phải biết Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng ly. Hữu tình
ly, nên phải biết tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa cũng ly. Hữu
tình ly, nên phải biết năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng ly. Hữu tình ly,
nên phải biết mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng ly.
Hữu tình ly, nên phải biết đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng ly. Hữu tình ly,
nên phải biết ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp cũng ly. Hữu tình ly, nên
phải biết pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng ly. Hữu tình ly, nên phải
biết Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng ly. Hữu tình ly,
nên phải biết Dự lưu quả cho đến Độc giác Bồ đề cũng ly. Hữu tình ly, nên phải
biết tất cả Bồ tát hạnh, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng
ly. Hữu tình ly, nên phải biết Nhất thiết trí trí cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết tất cả pháp cũng ly.
Thiên tử nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, tâm vị đó chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng
khiếp, chẳng chìm, chẳng đắm… thì nên biết đại Bồ tát đó là người có thể thực
hành Bát Nhã sâu xa.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:
- Vì nhân duyên gì các đại Bồ tát
khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, thì tâm vị đó không kinh, không sợ, không
khiếp, không chìm, không đắm?
Cụ thọ Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Do tất cả pháp đều xa lìa nên các đại Bồ
tát khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, tâm vị đó không kinh, không sợ, không
khiếp, không chìm, không đắm. Vì sao? Vì các đại Bồ tát đối với tất cả pháp
hoặc năng sợ, sở sợ, hoặc chốn sợ, thời sợ, kẻ sợ v.v... do đây mà sợ đều vô sở
đắc, vì tất cả pháp bất khả đắc vậy.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nào nghe
thuyết việc như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không kinh sợ, không lo buồn,
không ăn năn, thì nên biết đại Bồ tát này là người có thể thực hành Bát Nhã sâu
xa. Vì sao? Vì đại Bồ tát này thấy tất cả pháp đều bất khả đắc, chẳng thể thi
thiết: Đây là năng chìm, sở chìm, nơi chìm, thời chìm, kẻ đắm chìm v.v... do
đây mà chìm v.v... Vì nhân duyên này các đại Bồ tát nghe việc như thế tâm chẳng
chìm đắm, cũng chẳng kinh sợ, chẳng lo chẳng hối.
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát nào có
thể thực hành Bát Nhã sâu xa như vậy thì chư Thiên, Đế Thích, đại Phạm Thiên
vương chủ thế giới v.v... cùng nhau kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng,
khen ngợi.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu đại Bồ tát nào thường thực
hành Bát Nhã sâu xa như vậy thì chẳng những thường được chư Thiên, Đế Thích,
đại Phạm thiên vương chủ thế giới v.v... cùng nhau kính lễ, cung kính, cúng
dường, tôn trọng, khen ngợi, mà đại Bồ tát này cũng được trời Cực quang tịnh,
hoặc trời Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Tịnh cư và trời, rồng, A tu la v.v...
khác cũng đều kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Đại Bồ tát
này thường thực hành Bát Nhã sâu xa như vậy, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác và các chúng đại Bồ tát ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong
mười phương thường hộ niệm.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
thường thực hành Bát Nhã sâu xa như vậy tức là làm cho tất cả công đức căn lành
mau được viên mãn.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào thường thực hành Bát Nhã sâu xa như thế, thì thường được chư Phật và chư Bồ
tát cùng các trời, rồng, A tu la v.v... nhớ nghĩ, bảo vệ. Nên biết đại Bồ tát
đó là người đi đúng chỗ chư Phật đã đi, cũng tu hành đúng hạnh Phật đã tu hành,
mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
đã được không thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tất cả quân ma và các
ngoại đạo, bạn bè xấu ác v.v... chẳng thể làm chướng ngại được. Vì sao? Vì đại
Bồ tát này tâm của họ vững chắc hơn Kim cang. Giả sử các loài hữu tình trong
thế giới Tam thiên đại thiên đều biến thành ma, mỗi một ma này lại hóa ra chừng
ấy ác ma. Các ác ma đó đều có vô lượng, vô số thần lực, các ác ma đó dùng hết
thần lực của mình cũng chẳng thể làm chướng ngại được đại Bồ tát này thực hành
Bát Nhã sâu xa, hoặc thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì đại
Bồ tát này đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, biết tất cả pháp
bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Để việc các
loài hữu tình trong thế giới Tam thiên đại thiên đều biến thành ma qua một bên.
Giả sử tất cả hữu tình ở thế giới chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười
phương đều biến thành ma. Các chúng ma này lại hóa thành chừng ấy ác ma, các ác
ma này đều có vô lượng, vô số thần lực. Các ác ma này dùng hết thần lực của
mình cũng chẳng thể làm chướng ngại đại Bồ tát thực hành Bát Nhã sâu xa, hay
làm thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được. Vì sao? Vì đại Bồ tát này
đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, biết tất cả pháp bất khả
đắc vậy.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào thành tựu được hai pháp thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại, khiến
cho không thể thực hành Bát Nhã sâu xa, hay thối lui quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Hai pháp đó là:
- Một là
chẳng bỏ tất cả hữu tình, hai là quán sát các pháp đều Không.
Lại nữa Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát
nào thành tựu hai điều kiện, thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại, khiến
cho không thể thực hành Bát Nhã sâu xa, hay thối lui quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Hai điều kiện đó là:
- Một là
thực hiện đúng những gì đã nói, hai là thường được chư Phật hộ niệm.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào thực hành Bát Nhã sâu xa như vậy thì các thiên thần v.v... thường đến lễ
kính, cúng dường, thưa hỏi khuyến khích. Tất cả đều thưa thế này: “Lành thay
Đại sĩ! Ngài thường thực hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa, mau
chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có thể làm nơi nương tựa cho tất cả
hữu tình không có nơi nương tựa, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có chỗ quay
về nương tựa, làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ, làm chỗ hướng đến
cho kẻ không nơi hướng đến, làm nhà cửa cho kẻ không nhà cửa, làm hòn đảo cho
kẻ không hòn đảo, làm ánh sáng cho kẻ mù tối, làm tai mắt cho kẻ mù điếc. Vì
sao? Thiện nam tử! Vì nếu thường an trụ phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu
xa, thì sẽ mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tất cả ác ma chẳng thể
làm chướng ngại được. (Hết Q.553, TBBN)
Quyển thứ
554
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào có thể trụ Bát Nhã sâu xa như vậy thì được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương cùng với các chúng
Bí sô vây quanh trước sau đang tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật ở giữa đại chúng
tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của
đại Bồ tát này. Đó là công đức chơn tịnh
của sự an trụ Bát Nhã sâu xa.
Thiện Hiện nên biết! Như Ta ngày nay
ngự giữa đại chúng tuyên thuyết Bát Nhã cho mọi người, tự nhiên hoan hỷ khen
ngợi, tán thán các đại Bồ tát, như đại Bồ tát Bảo Tràng v.v... và các đại Bồ
tát với danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức đang trụ vào Bát Nhã sâu xa tịnh
tu phạm hạnh, ở cõi Phật Bất Động (Phật A
Súc cõi Tịnh độ phương Đông). Đó là công đức chơn tịnh của sự an trú Bát
Nhã sâu xa.
Tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới hiện tại trong mười phương tuyên
thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, ở đó cũng có các đại Bồ tát tịnh tu phạm
hạnh, không lìa Bát nhã Ba la mật. Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia đều
ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc
tướng, công đức của đại Bồ tát kia. Đó gọi là công đức chơn tịnh không lìa Bát
Nhã sâu xa. (Q.554, TBBN)
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi tất cả Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, đều ở giữa đại chúng
tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của
tất cả chúng đại Bồ tát phải không?
Phật dạy:
- Chẳng phải vậy, chẳng phải khi các
đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, đều
ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng,
công đức của tất cả chúng đại Bồ tát.
Thiện Hiện nên biết! Có đại Bồ tát
được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thực hành phương tiện
thiện xảo của Bát Nhã sâu xa, đại Bồ tát này được các đức Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, ở giữa đại chúng tự
nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị
đó.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có chúng đại Bồ tát
nào chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà được Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng mà tự nhiên ở
giữa chúng hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức
không?
Phật dạy:
- Cũng có. Nghĩa là có chúng đại Bồ
tát tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng tu
học phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật thì đại Bồ tát này cũng được
đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng,
tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của
vị ấy giữa đại chúng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Người được nói đến
đó là đại Bồ tát nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Có các chúng đại Bồ tát khi theo
Phật Bất Động làm Bồ tát để học sở tu và trụ sở hành, tu hành phương tiện thiện
xảo của Bát nhã Ba la mật. Đại Bồ tát này tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên
thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh
tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng. Lại có chúng đại Bồ
tát theo đại Bồ tát Bảo Tràng v.v... để học sở tu, trụ sở hành, tu hành phương
tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật; các đại Bồ tát này tuy chưa được Bất thối
chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán
thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát
thực hành Bát Nhã sâu xa, ngay nơi tánh vô sanh của tất cả pháp tuy rất tin
hiểu nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Tuy rất tin hiểu tánh của tất cả pháp hoàn toàn vắng lặng
nhưng chưa được nhập vào địa vị Bất thối chuyển. Nhưng đại Bồ tát này đã trụ
phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật nên cũng được Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen
ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa
cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc
tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng, thì đại Bồ tát này vượt qua địa vị
của các Thanh văn, Độc giác, gần được thọ ký bất thối chuyển quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ tát này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát
nhã Ba la mật, chắc chắn sẽ an trụ địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát
nào nghe thuyết về nghĩa thú của Bát Nhã sâu xa, hết lòng tin hiểu, không nghi
ngờ, không hoang mang, chỉ nghĩ: Nghĩa thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật như
Phật đã dạy, tất nhiên quyết định không điên đảo. Đại Bồ tát này nên nghĩ: Ta
đối với nghĩa thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật hết lòng tin hiểu chắc chắn rồi,
ngay nơi đây hoặc ở chỗ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Bất Động và chỗ các đại Bồ
tát nghe tất cả Bát nhã Ba la mật, đối với nghĩa thú sâu xa hết lòng tin hiểu.
Tin hiểu rồi siêng năng tu phạm hạnh, sẽ được địa vị Bất thối chuyển. Trụ địa
vị này rồi mau chứng quả vị Vô thượng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào chỉ nghe Bát Nhã sâu xa như vậy còn được vô biên công đức lợi ích thù
thắng, huống là hết lòng tin hiểu và tu hành đúng như lời dạy, buộc niệm tư duy
về nghĩa thú sâu xa thì đại Bồ tát này an trụ chơn như, gần Nhất thiết trí, mau
chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, sẽ tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu
tình.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp nào lìa chơn
như thì không thể đắc, vậy nói pháp nào an trụ chơn như? Lại nói ai năng gần
Nhất thiết trí mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Ai vì ai thuyết
pháp yếu nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ngươi hỏi: Pháp nào lìa chơn như
thì không thể đắc, vậy nói pháp nào an trụ chơn như? Lại nói ai năng gần Nhất
thiết trí mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Ai vì ai thuyết pháp yếu
nào?
Đúng như vậy! Đúng như lời người
nói! Pháp lìa chơn như hoàn toàn không thể đắc, như thế thì làm sao có thể nói
có pháp trụ chơn như. Thiện Hiện! Chơn như còn không thể đắc, huống là có pháp
trụ chơn như và làm sao lại có người có thể gần Nhất thiết trí mau chứng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Và làm sao lại có người có thể vì người khác thuyết
pháp.
Thiện
Hiện phải biết: Chơn như chẳng thể tự trụ chơn như, vì trong ấy trọn không năng
sở trụ vậy. Chơn như chẳng thể gần Nhất thiết trí, vì trong ấy trọn không năng
gần sở gần vậy. Chơn như chẳng thể chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì
trong ấy trọn không tánh năng đắc sở đắc sai khác vậy. Chơn như chẳng năng vì
người thuyết pháp, vì trong ấy trọn không năng thuyết sở thuyết vậy. Tùy thuận
thế tục nên nói có Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật sâu thẳm, an trụ chơn như, gần
Nhất thiết trí, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói
pháp yếu. (Q.554, TBBN)
Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nghĩa thú Bát Nhã
sâu xa, rất khó tin hiểu như vậy. Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa tuy biết
các pháp đều bất khả đắc nhưng vẫn cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn
tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình là việc làm rất khó. Vì sao? Vì nhất định không có pháp có thể trụ chơn
như, cũng không có pháp có thể gần Nhất thiết trí mau chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không có người có thể tuyên thuyết pháp yếu. Nhưng
các Bồ tát nghe việc như vậy mà tâm không chìm đắm, không nghi, không ngờ,
không kinh, không sợ, cũng không hoang mang… thì những việc như vậy thật là
hiếm có.
Khi ấy, Thiện Hiện bảo trời Đế
Thích:
- Này Kiều thi ca! Như lời ông nói,
các chúng Bồ tát nghe pháp sâu xa, tâm không chìm đắm, không nghi ngờ, không
kinh, không sợ, cũng không hoang mang cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
muốn tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình là việc làm rất khó, thật hiếm vậy.
Kiều thi ca! Các đại Bồ tát thực hành Bát Nhã sâu xa, quán các pháp đều Không, hoàn
toàn vô sở hữu, thì ai chìm, ai đắm, ai nghi, ai ngờ, ai kinh, ai sợ, ai hoang
mang? Thế nên việc này chưa phải là hiếm có, nhưng vì hữu tình ngu si điên
đảo, chẳng thể thông đạt được các pháp đều Không, nên cầu Bồ đề, muốn tuyên
thuyết phương tiện thiện xảo thì chẳng phải quá khó.
Trời Đế Thích thưa:
- Tôn giả Thiện Hiện! Những điều tôn
giả nói ra đều y vào Không, thế nên những lời nói ra thường không ngăn ngại.
Như có người lấy mũi tên, ngửa mặt bắn lên hư không, hoặc xa hoặc gần đều không
ngăn ngại. Những lời tôn giả nói ra cũng như vậy, hoặc sâu hoặc cạn, tất cả
nương Không, trong ấy ai là người có thể gây trở ngại?
Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những gì con cùng
tôn giả Thiện Hiện đã luận bàn là thuận thật ngữ, pháp ngữ Như Lai. Đối với
pháp tùy pháp mà thuyết là chân chính thuyết phải không?
Thế Tôn bảo trời Đế Thích:
- Những sự luận bàn của ông và Thiện
Hiện đều thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai. Đối với pháp tùy pháp mà nói
là không điên đảo. Vì sao? Kiều thi ca! Vì cụ thọ Thiện Hiện có biện tài nương
Không mà thi thiết. Vì sao? Vì cụ thọ Thiện Hiện quán sát thấy tất cả pháp hoàn
toàn Không: Bát Nhã sâu xa còn chẳng đắc, huống là có người thực hành Bát Nhã
sâu xa. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật còn chẳng đắc, huống là
có người chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. Nhất thiết
trí còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc Nhất thiết trí. Chơn như còn
chẳng đắc, huống là có người đắc chơn như, thành Như Lai. Tánh vô sanh còn
chẳng đắc, huống là có người chứng đắc tánh vô sanh. Bồ đề còn chẳng đắc, huống
là có người chứng đắc Bồ đề của Phật. Mười lực còn chẳng đắc, huống là có người
thành tựu mười lực. Bốn điều không sợ còn chẳng đắc, huống là có người thành
tựu bốn điều không sợ. Các pháp còn
chẳng đắc, huống là có người thuyết pháp.
Vì sao? Này Kiều thi ca! Cụ thọ
Thiện Hiện đối tất cả pháp trụ trụ xa
lìa, đối tất cả pháp trụ trụ vô sở đắc. Vì quán tất cả pháp rốt ráo đều
không, năng hành sở hành thảy bất khả đắc vậy.
Kiều thi ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối
với tất cả pháp trụ trụ xa lìa, trụ vô sở đắc, so với hành trụ vi diệu của các chúng đại Bồ tát đã trụ Bát nhã Ba la mật
thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không
bằng một, cho đến vô số cực phần cũng không bằng một.
Vì sao? Này Kiều thi ca! Vì sự an
trú vào hạnh vi diệu Bát nhã Ba la mật của các chúng đại Bồ tát này đã trụ, trừ
sự an trụ của Như Lai; đối với các trụ của các Bồ tát, Độc giác và Thanh Văn
khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu là vi diệu, là thượng, là vô
thượng. Vì vậy nên, Kiều thi ca! Những đại Bồ tát nào muốn đối với tất cả hữu
tình là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô
thượng trong chúng thì phải trụ hạnh trụ vi diệu của Bát nhã Ba la mật, không
được tạm rời bỏ. (Q. 554, TBBN)
Lược giải:
1. Tánh chắc hay không chắc thật?
Khi Bồ tát hành Bát Nhã, đối với Bát Nhã còn chẳng
thấy “tánh không kiên cố” có thể nắm bắt được huống là thấy “tánh kiến cố”; đối
với thiền định, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí còn chẳng thấy tánh không
kiên cố có thể nắm bắt được, huống là thấy có tánh kiên cố có thể nắm bắt được.
Nếu chúng ta
tin tưởng một pháp dù pháp đó là Nhất thiết trí trí và cố nắm lấy tướng, nhiếp
thọ để trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì Nhất thiết trí trí không còn là
Nhất thiết trí trí nữa nói chi đó là pháp kiên cố hay không kiên cố, chắc thật
hay không chắc thật. Kinh nói: “Vì Nhất thiết trí trí này chẳng
phải lấy tướng tu đắc. Các kẻ lấy tướng đều là phiền não. Vì sao? Vì Nhất thiết
trí trí này chẳng phải thủ tướng mà tu đắc. Người thủ tướng đều là phiền não”. (Q.556, ĐBN)
Tất cả phiền não đều do phân biệt. Phân biệt những gì?
Phân biệt tướng. Do phân biệt nên có chấp. Rồi từ chấp mới đưa đến quyết định
nắm bắt, giữ bỏ... Kết quả là được mất, có không. Đó chính là phiền não của con
người trần tục. Thật ra, không phải pháp kiên cố hay không kiên cố, chắc hay
không chắc v.v... Chính do phân biệt chấp trước đưa đến thủ đắc tướng mà sanh
bệnh. Phạm Chí thắng quân chỉ sanh tín giải sâu sắc mà thâm nhập được Nhất
thiết trí trí. Chỉ cần dùng bổn nguyện tu hành tất cả pháp Phật, nhưng không
nắm bắt bất cứ pháp nào dù là Nhất thiết trí trí, thì vẫn có thể thành tựu quả
Phật!
Phẩm “Vô Trụ”,
phần cuối quyển 36 cho đến hết quyển 37, Hội thứ I. Nói:
“Phạm chí
Thắng Quân này chẳng ở trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí
trí. Chẳng ở ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí.
Chẳng ở trong ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí.
Cũng chẳng phải lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức quán Nhất thiết trí trí, cho
đến chẳng phải ở trong tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết
trí trí. Chẳng phải ở ngoài tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất
thiết trí trí. Chẳng phải ở trong ngoài tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà
quán Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng phải lìa tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa
môn mà quán Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc
trong ngoài, hoặc lìa trong ngoài, tất cả đều không, bất khả đắc. Phạm chí Thắng Quân này do lìa các tướng môn
như vậy, nên đối với Nhất thiết trí trí phát sanh lòng tin hiểu sâu sắc. Do tin
hiểu như vậy nên đối với tất cả pháp đều không chấp trước. Vì thật tướng các
pháp bất khả đắc. Như vậy, Phạm chí nhờ môn lìa tướng, đối với Nhất thiết
trí trí được tin hiểu rồi, đối với tất cả pháp đều không chấp tướng, cũng không
tư duy các pháp vô tướng, vì pháp tướng,
vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy, Phạm chí do lực thắng giải đối với tất
cả pháp không lấy, không bỏ, vì trong pháp thật tướng không có lấy bỏ. Bấy giờ,
Phạm chí đó với sự tự tin hiểu của mình cho đến Niết bàn cũng không chấp trước.
Vì sao? Vì bản tánh tất cả pháp đều không, không thể nắm giữ”.
Tướng cũng bỏ mà vô tướng cũng bỏ, lìa tất cả tướng
thì mới thấy Như Lai.
2. Tất cả
pháp đều rỗng không.
Đại Bồ tát ấy, tuy biết hữu tình hoàn toàn vô sở hữu,
nhưng phát tâm cầu quả vị Giác ngộ, mang đội giáp bị đại công đức muốn điều
phục các loài hữu tình, nhưng sự điều
phục ấy như điều phục hư không. Vì sao? Vì hư không xa lìa, nên biết tất cả
hữu tình cũng xa lìa; vì hư không rỗng không, nên biết tất cả hữu tình cũng
rỗng không; vì hư không không chắc thật, nên biết tất cả hữu tình cũng không
chắc thật; vì hư không vô sở hữu, nên biết tất cả hữu tình cũng vô sở hữu. Vì
vậy, đại Bồ tát ấy rất hiếm có, có khả năng làm việc khó làm.
Nên biết, việc điều phục phúc lạc cho các hữu tình của
các đại Bồ tát cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì hữu tình xa lìa, nên
biết sự điều phục cũng xa lìa; vì hữu tình rỗng không, nên biết sự điều phục
cũng rỗng không; vì hữu tình chẳng chắc thật, nên biết sự điều phục cũng không
chắc thật; vì hữu tình vô sở hữu, nên biết sự điều phục phúc lạc này cũng vô sở
hữu.
Nên biết, các đại Bồ tát cũng vô sở hữu. Vì sao? Vì
hữu tình xa lìa, nên biết đại Bồ tát cũng xa lìa; vì hữu tình rỗng không, nên
biết đại Bồ tát cũng rỗng không; vì hữu tình không chắc thật, nên biết đại Bồ
tát cũng không chắc thật; vì hữu tình vô sở hữu, nên biết đại Bồ tát cũng vô sở
hữu.
Đối với Bát
Nhã tất cả đều rỗng không: Các pháp kể cả hữu tình, Bồ tát đều rỗng không, vô
sở hữu, bất khả đắc, thì có gì có thể nói là chắc hay không chắc thật? Học Bát
Nhã, hành Bát Nhã như hành hư không. Nếu đại Bồ tát nghe như vậy mà tâm chẳng
chìm đắm, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc, thì nên biết đại
Bồ tát ấy có thể tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật.
“Nếu đại Bồ tát nghe nói các pháp xa lìa(viễn ly)mà tâm chẳng chìm đắm, chẳng
kinh, chẳng sợ, cũng chẳng sầu lo, hối tiếc, thì nên biết đại Bồ tát ấy đã từng tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì tất cả
pháp đều chẳng phải có, nên các đại
Bồ tát đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm đắm. Vì tất cả pháp đều viễn ly. Vì tất cả pháp đều
vắng lặng, vì tất cả pháp đều vô sở
hữu, vì tất cả pháp đều không sanh
diệt, nên các đại Bồ tát đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm đắm. Do những nhân
duyên như thế, nên các đại Bồ tát đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm đắm. Vì sao?
Vì các đại Bồ tát đối với tất cả pháp hoặc năng chìm đắm, hoặc sở chìm đắm,
hoặc thời chìm đắm, hoặc xứ chìm đắm, hoặc sự chìm đắm, do đó mà chìm đắm, đều
chẳng thể nắm bắt được, vì tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được. Nếu các đại Bồ
tát nghe nói như vậy, tâm chẳng chìm đắm, chẳng kinh, chẳng sợ v.v… thì nên
biết đại Bồ tát ấy đã từng tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật” (Q. 346, ĐBN)
Đối với Bát Nhã tất cả pháp đều chẳng phải có, tất cả
pháp đều viễn ly, đều vắng lặng, không sanh diệt, vô sở hữu, không có tự tánh
nên nói là không, là rỗng không. Vậy, trong cái rỗng không làm sao thấy biết là
chắc thật hay chẳng chắc thật, kiên cố hay kiên cố? Sở dĩ, chư Phật nói như vậy
cũng vì muốn tháo đinh gỡ chốt cho tất cả hữu tình, không muốn hữu tình vì sắc
trần nhiễm tịnh có không mà bị trói, chỗ không được giải thoát. Nếu bỏ được cái
lộn lạo không chân thường gọi là thường, không kiên cố bảo là kiên cố, không
chắc thật bảo là chắc thật... thì pháp nào cũng như pháp nào, tất cả đều thanh
tịnh như nhau. Chính đó gọi là Niết bàn! Chính vì vậy chư Phật bảo: “Phải quán
tất cả pháp đều không", thì mới có thể tháo gỡ tất phiền não chướng cũng
như sở tri chướng!”
Nói như thế để
chúng sanh không bám trụ vào bất cứ thứ gì dù là Niết bàn. Đừng bám trụ vào bất
cứ thứ gì dù là pháp mang lại nhiều thắng lợi công đức nhất!
---o0o---