XXVIII. PHẨM
“TÁN HOA”(1)
Phần cuối của quyển 554, Hội thứ IV, TBBN.
Tóm lược:
(Phật phó chúc Bát Nhã cho Ngài A Nan)
Bấy giờ trong đại hội có vô lượng,
vô số trời Ba mươi ba vui mừng hớn hở, đồng đem hương hoa vi diệu trên trời
dâng lên Như Lai và các Bồ tát. Khi ấy, trong chúng có sáu ngàn Bí sô đều từ
tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, lệch che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp
tay, cúi đầu, hướng về Thế Tôn. Nhờ thần lực của Phật nên trong lòng bàn tay
của mỗi người tự
nhiên đầy dẫy hương hoa vi diệu. Chúng Bí sô này vui mừng hớn hở, được điều
chưa từng có. Mỗi người đem hoa này dâng lên Phật và các Bồ tát. Dâng hoa xong,
đồng phát nguyện:
- Chúng con dùng sức căn lành thù
thắng đây, nguyện thường an trụ thắng hạnh vi diệu Bát nhã Ba la mật sâu xa,
mau tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi ấy, Thế Tôn mỉm cười. Thường khi
của chư Phật mỉn cười, thì từ miệng phóng ra vô số hào quang xanh, vàng, đỏ,
trắng, hồng, tía, bích lục, màu vàng, bạc, pha lê… chiếu khắp vô lượng, vô biên
quốc độ của chư Phật, trên đến trời Phạm Thế(2), dưới thấu Phong luân(3) và lần
hồi trở lại xoay quanh bên hữu của Phật ba vòng rồi nhập vào nơi đỉnh đầu.
Khi ấy, A Nan Đà đứng dậy, chấp tay
đảnh lễ Phật, thưa:
- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào
Thế Tôn hiện tướng mỉm cười như vậy? Chư Phật mỉm cười chẳng phải là không có
nhân duyên. Cúi xin Như Lai thương xót chỉ dạy.
Phật bảo A Nan Đà:
- Các Bí sô này trong kiếp Tinh Dụ ở
đời đương lai đều được thành Phật đồng danh hiệu là Tán Hoa, đầy đủ mười hiệu,
số Thanh văn Tăng tất cả bằng nhau, số tuổi thọ cũng đồng hai mươi ngàn kiếp.
Ngôn giáo của mỗi một đức Phật kia diễn ra, lý thú sâu rộng, lưu bố khắp trời
người. Chánh pháp trụ thế hai vạn kiếp. Cõi nước của chư Phật kia rộng rãi,
trang nghiêm thanh tịnh, người vật phồn thịnh, giàu vui. Các đức Như Lai kia ở
cõi nước của mình đem các đệ tử du hành quanh khắp thôn, thành, làng xóm, quốc
ấp, vương đô để chuyển vận bánh xe diệu pháp, độ chúng trời người, làm cho được
lợi ích an vui thù thắng. Trụ xứ nơi các đức Thế Tôn kia qua lại, ngày đêm
thường mưa hoa đẹp năm sắc. Do nhân duyên này nên Ta mỉm cười.
Thế nên, Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ tát nào muốn được an trụ tối
thắng thì phải trụ thắng hạnh vi diệu của Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ tát nào
muốn được an trụ như Như Lai thì phải trụ thắng hạnh vi diệu của Bát nhã Ba la
mật.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào siêng năng tu học Bát Nhã sâu xa, làm cho được rốt ráo thì đại Bồ tát này
đời trước, hoặc là từ loài người chết, sanh trở lại nơi đây; hoặc từ trên trời
Đổ sử đa chết sanh lại nhân gian. Vì sao? Vì Bồ tát đó ở đời trước, hoặc ngay
trong loài người, hoặc ở trên trời, do từng được nghe tất cả Bát Nhã nên đời
này thường siêng năng tu học Bát Nhã sâu xa.
Khánh Hỷ nên biết! Như Lai hiện
thấy: Nếu đại Bồ tát siêng năng tu học Bát Nhã sâu xa, không đoái hoài đến thân
mạng, của cải thì nhất định được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Loài hữu tình nào
ưa thích lắng nghe Bát Nhã sâu xa, nghe xong thọ trì, đọc tụng, biên chép, tinh
tấn tu học, tư duy đúng pháp, tuyên thuyết, mở bày, khuyên răn, chỉ dạy cho
thiện nam tử Bồ tát thừa v.v... thì nên biết vị đó là đại Bồ tát, quá khứ từng
gần gũi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nghe thuyết Bát Nhã sâu xa như thế. Nghe
xong, thọ trì, đọc tụng, biên chép, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng
pháp, cũng từng vì người tuyên thuyết, mở bày, khuyên răn, chỉ dạy Bát Nhã sâu
xa, nên đời này có thể làm xong việc như vậy.
Khánh Hỷ nên biết! Loài hữu tình này
từng ở chỗ vô lượng chư Phật quá khứ trồng các căn lành nên đời này thường làm
được những việc như vậy. Loài hữu tình này nên nghĩ thế này: Ta đời trước chẳng
phải từ nơi Thanh văn v.v... nghe thuyết Bát Nhã sâu xa như vậy, mà nhất định
đã từ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nghe thuyết Bát Nhã sâu xa như vậy. Ta đời
trước chẳng phải chỉ gần gũi, cúng dường, trồng các căn lành nơi Thanh văn
v.v... mà nhất định đã gần gũi, cúng dường, trồng các căn lành nơi Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác. Do nhân duyên này nên nay được nghe Bát Nhã sâu xa này, ưa thích thọ trì, đọc tụng, biên
chép, siêng năng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, tuyên thuyết cho tất cả
hữu tình không hề mỏi mệt.
Lại nữa, Khánh
Hỷ! Nếu hữu tình chẳng kinh, chẳng sợ, ưa thích lắng nghe Bát Nhã sâu xa, nghe
rồi thọ trì, đọc tụng, biên chép, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp. Hoặc
pháp, hoặc nghĩa, hoặc văn, hoặc ý đều thông suốt hoàn toàn và tùy thuận tu học
thì các hữu tình này chính là đang gần Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác của chúng
ta. (Q.554, TBBN)
Khánh Hỷ nên biết! Nếu loài hữu tình
nào nghe thuyết nghĩa thú Bát Nhã sâu xa như vậy mà hết lòng tin hiểu, không
hủy báng, không ngăn cản, phá hoại, thì các hữu tình đó đã từng cúng dường vô
lượng chư Phật, đã trồng nhiều căn lành nơi chư Phật, cũng được vô lượng bạn
lành hộ trì.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các hữu tình
nào thường trồng các căn lành nơi ruộng phước tối thắng Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác thì không những nhất định sẽ đắc hoặc quả Thanh văn, hoặc quả Độc giác,
hoặc quả Bồ tát, mà còn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì cần
phải thông suốt hoàn toàn nghĩa thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật không ngăn
ngại, tinh tấn tu hành các Bồ tát hạnh, làm cho thật viên mãn.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát có
thể thông suốt hoàn toàn nghĩa thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật không chướng
ngại, tinh tấn tu hành các Bồ tát hạnh thật viên mãn, mà đại Bồ tát này không
chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chỉ trụ địa vị Thanh văn, Độc giác thì
chắc chắn không có lẽ đó. Thế nên, nếu các đại Bồ tát nào muốn đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nên thông suốt hoàn toàn nghĩa thú sâu xa của Bát
nhã Ba la mật không còn chướng ngại, tinh tấn tu hành các Bồ tát hạnh thật là
viên mãn.
Thế nên Khánh Hỷ! Ta đem Kinh điển Bát Nhã sâu xa phó chúc
cho ngươi. Ngươi nên thọ trì, đọc tụng thông suốt, đừng để quên mất.
Khánh Hỷ nên biết! Trừ Kinh điển Bát
Nhã sâu xa này ra, thọ trì các pháp khác mà Ta đã giảng thuyết, giả sử có quên
mất thì tội đó còn nhẹ, nhưng nếu đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa này thọ trì
không đúng, cho đến chỉ quên mất một câu thì tội đó rất nặng. (Q.554, TBBN)
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đối với Kinh
điển Bát Nhã sâu xa cho đến có thể thọ trì đúng một câu chẳng quên mất thì được
phước vô lượng. Còn nếu đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa chẳng thọ trì đúng,
cho đến quên mất chỉ một câu thì mắc tội rất nặng, vì lượng phước đồng như
trước.
Thế nên Khánh Hỷ! Ta đem Kinh điển
Bát Nhã sâu xa này ân cần phó chúc cho ngươi. Ngươi phải tự mình thọ trì, đọc tụng cho thông suốt, tư duy đúng pháp,
giảng thuyết, phân biệt, chỉ dạy cho tất cả mọi người, giúp cho người thọ trì
hiểu rõ hoàn toàn văn nghĩa, lý thú.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát
thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn Bát Nhã sâu xa, tư duy đúng pháp và
giảng thuyết rộng rãi cho tất cả mọi người, phân biệt, chỉ dạy, làm cho mọi
người hiểu rõ thì đại Bồ tát này chính là người thọ trì, bảo vệ và phát huy sự
chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị
lai, hiện tại.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu loài hữu tình
nào phát tâm ân cần thanh tịnh, đang ở chỗ Ta, muốn đem các tràng hoa thượng
diệu cho đến đèn sáng cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Ta không mỏi
mệt, thì nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn Bát nhã
Ba la mật, tư duy đúng pháp, giảng thuyết, phân biệt, chỉ dạy rộng rãi cho mọi
người, làm cho họ hiểu rõ hoặc biên chép và dùng các thứ báu, trang sức xinh
đẹp, và đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cung kính, cúng
dường, tôn trọng, khen ngợi, không nên lười bỏ.
(Cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát
Nhã tức là cúng dường,
tôn trọng ngợi khen chư Phật mười
phương).
Khánh Hỷ nên
biết! Nếu đại Bồ tát nào cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Bát Nhã sâu
xa thì chính là hiện tiền cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Ta và chư
Phật trong mười phương ba đời.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào nghe Bát Nhã sâu xa, phát tâm thanh tịnh, cung kính, ưa thích thì chính là
phát tâm thanh tịnh, cung kính, ưa thích chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, hiện tại, vị lai.
Khánh Hỷ! Nếu ngươi ưa mến Ta, không
xa rời Ta thì cũng phải ưa mến, không xa rời Kinh điển Bát Nhã sâu xa, cho đến
một câu cũng đừng để quên mất.
Khánh Hỷ! Ta
nói nhân duyên phó chúc Kinh điển Bát Nhã sâu xa như thế, dù trải qua vô lượng
trăm ngàn đại kiếp cũng không thể nói hết. Tóm tắt mà nói, như Ta đã là Đại sư
của các ngươi thì nên biết Bát Nhã sâu xa cũng là Đại sư của các ngươi. Các
ngươi, trời, người, A tu la v.v... kính trọng Ta thì cũng phải kính trọng Bát
Nhã sâu xa.
Thế nên, Khánh Hỷ! Ta dùng vô lượng
phương tiện thiện xảo phó chúc Kinh điển Bát Nhã sâu xa cho ngươi, ngươi nên
thọ trì, không thể quên mất. Ta nay đem Bát Nhã sâu xa này ở trước vô lượng đại
chúng chư thiên, nhơn, A tu la v.v... phó chúc cho ngươi, ngươi nên thọ trì,
đừng để quên mất.
Khánh Hỷ! Ta nay thành thật bảo
ngươi: Những người với lòng tin thanh tịnh, muốn không bỏ Phật, muốn không bỏ
Pháp, muốn không bỏ Tăng, lại muốn không bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
của chư Phật ba đời đã chứng, thì nhất định không nên bỏ Bát Nhã sâu xa. Như
vậy, gọi là pháp của chư Phật chúng ta khuyên răn, chỉ dạy các đệ tử.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam,
thiện nữ nào ưa thích lắng nghe Bát Nhã sâu xa, thọ trì đọc tụng, thông suốt
hoàn toàn, tư duy đúng pháp, dùng vô lượng pháp môn giảng thuyết rộng rãi cho
mọi người, phân biệt chỉ dạy, trình bày, xây dựng, làm cho người kia hiểu rõ,
tinh tấn tu hành thì các thiện nam tử, thiện nữ này mau chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, có thể mau viên mãn Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết
trí trí của quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đều nương Bát Nhã sâu xa này mà
được phát sanh vậy. (Q.554, TBBN)
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời
đều nương Bát Nhã sâu xa này mà sanh ra quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thế nên Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ tát nào
muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nên siêng năng tinh tấn tu học
Bát Nhã sâu xa như vậy. Vì sao? Vì Bát Nhã là mẹ của các đại Bồ tát, sanh ra
các đại Bồ tát vậy.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào siêng học sáu pháp Ba la mật thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề.
Thế nên
Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba la mật này giao phó cho ngươi, ngươi nên chính
mình thọ trì, đừng để quên mất. Vì sao? Vì sáu pháp Bát nhã Ba la mật như vậy
chính là kho tàng vô tận của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Tất cả pháp
của Phật đều từ đây mà xuất sinh.
Khánh Hỷ nên
biết! Pháp yếu mà chư Phật Thế Tôn ba
đời thuyết ra đều là từ kho tàng vô tận của sáu pháp Ba la mật lưu xuất.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật Thế Tôn
mười phương ba đời đều nương kho tàng vô tận của sáu pháp Ba la mật tinh tấn tu
học mà chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khánh Hỷ nên biết! Đệ tử Thanh văn
của chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đều nương kho tàng vô tận của sáu pháp Ba
la mật tinh tấn tu học xong, chính mình sẽ nhập Vô dư Niết bàn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Giả sử ngươi vì
hạng người Thanh văn thừa thuyết pháp Thanh văn, do pháp này nên hữu tình trong
Tam thiên đại thiên thế giới, tất cả đều đắc quả A la hán, cũng chưa vì Ta làm
đệ tử Phật, làm việc nên làm. Nếu ngươi vì hạng người Bồ tát thừa tuyên thuyết
một câu pháp tương ưng với Bát Nhã sâu xa thì liền gọi là vì Ta làm đệ tử Phật,
làm việc đáng làm. Ta rất tùy hỷ với việc làm như vậy, hơn người giáo hóa tất
cả hữu tình ba ngàn đại thiên thế giới, làm cho đắc quả A la hán.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Giả sử tất cả hữu
tình ba ngàn đại thiên thế giới đều nhờ năng lực giáo hóa của người khác, đồng
một lúc đều được thân người, đồng một lúc chứng quả A la hán. Các A la hán này
đều đạt các việc phước nghiệp về thí tánh, giới tánh, tu tánh. Ý ngươi thế nào?
Các việc phước nghiệp kia có nhiều không?
Khánh Hỷ bạch:
- Rất nhiều! Bạch Thế Tôn. Rất
nhiều! Bạch Thiện thệ. Các việc phước nghiệp kia vô lượng, vô biên!
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Nếu Thanh văn nào có thể thuyết
pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật cho Bồ tát trải qua một ngày đêm thì phước
đạt được nhiều hơn người kia.
Khánh Hỷ nên biết! Để việc một ngày
đêm qua một bên, chỉ chừng một ngày. Lại để một ngày qua một bên, chỉ chừng nửa
ngày. Lại để nửa ngày qua một bên, chỉ chừng một giờ. Lại để một giờ qua một
bên, chỉ chừng khoảng một bữa ăn hay chỉ chừng giây lát. Lại để khoảng giây lát
qua một bên, chỉ chừng chốc lát hay chỉ chừng
khoảng khảy móng tay, hạng người Thanh văn này thường tuyên thuyết pháp
tương ưng với Bát nhã Ba la mật cho Bồ tát thì phước đạt được càng nhiều hơn
trước. Vì sao? Vì phước đạt được của hạng người Thanh văn này vượt qua tất cả
các căn lành của Thanh văn và Độc giác vậy.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ tát
nào tuyên thuyết các pháp cho Thanh văn, giả sử tất cả hữu tình ở Tam thiên đại
thiên thế giới nhờ pháp này nên đều chứng quả A la hán, đều đầy đủ các thứ
phước thù thắng thì ý ngươi thế nào? Đại Bồ tát này do nhân duyên như vậy, đạt
được phước có nhiều không?
Khánh Hỷ thưa:
- Rất nhiều, bạch Thế Tôn! Rất
nhiều, bạch Thiện thệ! Phước đức của đại Bồ tát này đạt được nhiều vô lượng, vô
biên.
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Nếu đại Bồ tát nào tuyên thuyết
pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật cho các thiện nam tử Thanh văn thừa v.v…,
hoặc thiện nam tử Độc giác thừa v.v…, hoặc thiện nam tử Vô thượng thừa v.v...,
trải qua một ngày đêm thì phước đạt được càng nhiều hơn trước.
Khánh Hỷ nên biết! Để việc một ngày
đêm qua một bên, chỉ chừng một ngày hay chỉ chừng nửa ngày. Lại để nửa ngày qua
một bên, chỉ chừng một giờ hay chỉ chừng khoảng một bữa ăn. Lại để khoảng một
bữa ăn qua một bên, chỉ chừng giây lát hay chỉ chừng chốc lát. Lại để chốc lát
qua một bên, chỉ chừng khoảng khảy móng
tay, đại Bồ tát này thường tuyên thuyết pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật
cho các thiên nam tử Tam thừa v.v… thì phước đức đạt được càng nhiều hơn trước
vô lượng, vô số. Vì sao? Vì pháp thí tương ưng Bát Nhã sâu xa, vượt qua tất cả
pháp thí tương ưng Thanh văn, Độc giác và các căn lành của Nhị thừa kia vậy. Vì
sao? Vì các đại Bồ tát này tự cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng dùng
pháp tương ưng Đại thừa chỉ dạy, khuyến khích, dắt dẫn, khen ngợi, khích lệ vui
mừng các hữu tình khác, làm cho được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. (Q.554, TBBN)
Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ tát này tự
tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng dạy người khác tu bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật. Tự trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, cũng
dạy người khác trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Tự trụ
chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng dạy người khác trụ chơn như cho
đến cảnh giới bất tư nghì. Tự trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng dạy người
khác trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tự tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh
đạo, cũng dạy người khác tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tự tu bốn
tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng dạy người khác tu bốn tịnh lự, bốn
vô lượng, bốn định vô sắc. Tự tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô
nguyện, cũng dạy người khác tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.
Tự tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ, cũng dạy người khác tu tám giải
thoát cho đến mười biến xứ. Tự tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, cũng dạy
người khác tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tự tu tất cả pháp môn Đà la ni,
pháp môn Tam ma địa, cũng dạy người khác tu tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn
Tam ma địa. Tự tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng dạy người khác tu năm
loại mắt, sáu phép thần thông. Tự tu mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng, cũng dạy người khác tu mười lực của Như Lai cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng. Tự tu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, cũng dạy
người khác tu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tự tu pháp không quên
mất, tánh luôn luôn xả, cũng dạy người khác tu pháp không quên mất, tánh luôn
luôn xả. Tự tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, cũng dạy
người khác tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Tự tu Bồ tát
hạnh, cũng dạy người khác tu Bồ tát hạnh. Tự tu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, cũng dạy người khác tu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhờ nhân duyên
này, căn lành tăng trưởng, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ tát này
thành tựu căn lành thù thắng như thế, nhớ nghĩ đến căn lành thù thắng như thế
mà thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì chắc chắn không có lẽ đó.
Bấy giờ, bốn chúng vây quanh đức Thế
Tôn, nghe Phật khen ngợi Bát nhã Ba la mật, giao phó, dạy bảo A Nan Đà để thọ
trì xong, lại ở trong đại hội trước đại chúng tất cả trời, rồng, Dược xoa, Kiền
đạt phược, A tu la, Yết lộ đồ, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, nhơn phi nhơn
v.v... bằng năng lực thần thông, Phật lại làm cho đại chúng đều thấy Như Lai
Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác với đại chúng Thanh văn, Bồ tát vây quanh tuyên
thuyết diệu pháp cho hội Hải dụ và thấy tướng nghiêm tịnh của cõi kia.
Thanh văn Tăng cõi đó đều là A la
hán, các lậu đã sạch, không còn phiền não, được chơn thật tự tại, tâm giải
thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, như ngựa khôn được điêu luyện, cũng
như rồng lớn, việc đáng làm đã làm xong, đã vứt bỏ các gánh nặng, đạt được lợi
ích, dứt các trói buột, tự biết đã được giải thoát, tâm chí tự tại rốt ráo hàng
đầu.
Bồ tát Tăng ở cõi đó, tất cả đều là
mọi người đều biết, đã đắc Đà la ni và vô ngại biện tài, thành tựu vô lượng
công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, không thể đo lường.
Phật thu hồi thần lực làm cho hội
chúng trời, rồng, Dược xoa, Kiền đạt phược v.v...(4) này không còn thấy Như Lai
Bất Động, chư Thanh văn, Bồ tát kia và đại chúng khác cùng tướng trang nghiêm,
thanh tịnh của cõi Phật kia. Chúng hội và cõi trang nghiêm thanh tịnh của Phật
kia hoàn toàn chẳng phải đối tượng của nhãn căn ở cõi này thấy được. Vì sao? Vì
Phật thu hồi thần lực nên không thể thấy được cảnh ở xa kia vậy.
Khi ấy, Phật hỏi A Nan Đà:
- Ngươi còn thấy cõi nước và chúng
hội của Như Lai Bất Động nữa không?
A Nan Đà thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con không còn thấy
những việc đó, vì chẳng phải khả năng của mắt này đạt tới được.
(Tất cả pháp chẳng phải là cảnh giới mà nhãn căn có
thể đạt được)
Phật bảo cụ thọ A Nan Đà:
- Như chúng hội và cõi nước của Như
Lai kia chẳng phải là cảnh giới của mắt ở cõi này có thể thấy được. Nên biết, các pháp cũng như vậy, chẳng phải
cảnh giới mà nhãn căn v.v... có thể đạt tới được.
Khánh Hỷ nên
biết! Vì pháp chẳng tu pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp
chẳng chứng pháp.
Khánh Hỷ nên
biết! Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết,
không người chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn
toàn không tác dụng. Người thủ, sự thủ đều như hư không, vì tánh xa lìa vậy. Vì
tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, người và sự nghĩ bàn đều như hóa nhân, vì tánh
xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng sáng v.v...
chẳng chắc thật vậy.
Khánh Hỷ nên
biết! Nếu đại Bồ tát luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy, luôn biết như vậy,
luôn chứng như vậy thì chính là hành Bát nhã Ba la mật, cũng không chấp trước
tướng các pháp này.
Khánh Hỷ nên
biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì chính là học Bát nhã Ba la mật.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát
muốn được mau chứng viên mãn tất cả Ba la mật rốt ráo thì nên học Bát nhã Ba la
mật. Vì sao? Vì người học như vậy đối với các pháp là tối, là thắng, là tôn, là
cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, làm lợi ích an lạc cho tất
cả thế gian, là nơi nương tựa, giúp đỡ cho người không nơi nương tựa, giúp đỡ.
Chư Phật Thế Tôn cho phép, khen ngợi người tu học Bát nhã Ba la mật.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật Bồ tát
học pháp này xong, trụ trong pháp học đó, thường dùng ngón tay phải hoặc ngón
chân phải ném Tam thiên đại thiên thế giới qua phương khác, hoặc trả lại chỗ cũ
mà hữu tình trong đó chẳng hay biết, chẳng tổn hại, chẳng sợ hãi. Vì sao? Vì
công đức oai lực của Bát Nhã sâu xa chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật và các Bồ tát
quá khứ, vị lai, hiện tại học Bát nhã Ba la mật này đối với quá khứ, vị lai,
hiện tại và pháp vô vi đều được tri kiến vô ngại.
Thế nên,
Khánh Hỷ! Ta bảo: Học Bát nhã Ba la mật là tối, là thắng, là tôn, là cao, là
diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng trong tất cả các pháp học.
Khánh Hỷ nên biết! Có người muốn nắm
lấy lượng và biên giới của Bát Nhã sâu xa, thì cũng giống như kẻ ngu si muốn
nắm lấy lượng và biên giới của hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát Nhã sâu xa
vô lượng, không biên giới vậy.
Khánh Hỷ nên biết! Ta hoàn toàn
không nói công đức lợi ích thù thắng của Bát Nhã sâu xa như danh thân v.v... có
biên giới, có hạn lượng. Vì sao? Vì danh cú, văn thân là pháp có hạn lượng, còn
công đức lợi ích thù thắng của Bát Nhã sâu xa là pháp không có hạn lượng, chẳng
phải danh thân v.v... có thể lường được công đức lợi ích thù thắng của Bát nhã
Ba la mật, cũng chẳng phải công đức lợi ích thù thắng của Bát nhã Ba la mật
lường được kia.
(Hành tướng Bát Nhã)
Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhơn duyên nào
nói Bát Nhã sâu xa là không lường?
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Bát nhã Ba
la mật tánh vô tận nên nói là không lường, tánh viễn ly nên nói là không lường,
tánh vắng lặng nên nói là không lường, như Niết bàn nên nói là không lường, như
hư không nên nói là không lường, nhiều công đức nên nói là không lường, không
biên cương nên nói là không lường, không thể lường nên nói là không lường. (Q.554, TBBN)
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời
đều học Bát nhã Ba la mật, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề viên mãn
hoàn toàn, tuyên thuyết chỉ dạy cho các hữu tình nhưng Bát nhã Ba la mật này
luôn không dứt hết. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa rộng lớn như hư không không cùng
tận vậy.
Khánh Hỷ nên biết! Có người muốn Bát
Nhã sâu xa tận cùng, tức là muốn biên giới hư không tận cùng. Thế nên, Khánh
Hỷ! Bát Nhã sâu xa nói là không cùng tận. Do không cùng tận nên nói là không
lường.
Khi ấy, Thiện Hiện nghĩ: Chỗ này sâu
xa, ta nên thưa hỏi Phật. Nghĩ xong, bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa này
vì lẽ gì Như Lai dạy là không cùng tận?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Bát Nhã sâu xa như hư không rộng lớn, không thể cùng tận nên nói là
không cùng tận.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát làm thế
nào để dẫn phát Bát nhã Ba la mật?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các đại Bồ tát nên quán sắc vô tận để phát khởi Bát nhã Ba
la mật; nên quán thọ, tưởng, hành, thức vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật.
Nên quán mười hai xứ, mười tám giới vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên
quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán
nhãn xúc vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xúc vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên quán các thọ do nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật.
Nên quán địa giới vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên quán thủy, hỏa,
phong, không, thức giới vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán nhân
duyên vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên quán đẳng vô gián duyên, sở
duyên duyên, tăng thượng duyên vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán
vô minh vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên quán hành, thức, danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não vô tận để
phát khởi Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
nên quán sắc như hư không vô tận để
phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên quán thọ, tưởng, hành, thức, như hư không vô
tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán mười hai xứ, mười tám giới như hư
không vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán nhãn xúc như hư không vô tận
để phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như hư
không vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra như hư không vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên quán các
thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như hư không vô tận để
phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán địa giới như hư không vô tận để phát khởi
Bát nhã Ba la mật; nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới như hư không vô
tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán nhân duyên như hư không vô tận để
phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng
thượng duyên như hư không vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán vô minh như hư không vô tận để
phát khởi Bát nhã Ba la mật; nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ,
ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não như hư không vô tận để phát
khởi Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện!
Các đại Bồ tát nên làm như thế là dẫn phát Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ tát
quán sát mười hai duyên khởi như thế xa lìa hai bên. Các đại Bồ tát quán sát
mười hai duyên khởi như thế không giữa không biên. Đây là Diệu quán bất cộng
của chúng đại Bồ tát. Nghĩa là cần phải ngồi yên tòa Diệu Bồ đề mới năng như
thật quán sát mười hai duyên khởi như thế, lý thú sâu thẳm như thái hư không
chẳng thể hết vậy, mới năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện nên biết: Nếu đại Bồ tát
đem hành tướng(5) như hư không không tận, hành Bát nhã Ba la mật, như thật quán
sát mười hai duyên khởi, chẳng rơi vào Thanh văn và bậc Độc giác, mau chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ tát
nếu đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà có quay lui, đều bởi chẳng nương phương
tiện khéo léo tác ý như thế, chẳng như thật biết các đại Bồ tát hành sâu Bát
nhã Ba la mật, làm sao nên đem hành tướng không tận dẫn phát Bát Nhã, làm sao
nên đem hành tướng không tận như thật quán sát mười hai duyên khởi.
Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ tát
nếu đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà có quay lui ấy, đều bởi xa lìa dẫn phát Bát nhã Ba la mật
phương tiện khéo léo.
Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ tát
nếu đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng quay lui ấy, tất cả đều nương dẫn phát
Bát Nhã phương tiện khéo léo. Đại Bồ tát này nhờ nương phương tiện khéo léo như
thế hành sâu Bát nhã Ba la mật, đem hành tướng như hư không không tận như thật
quán sát mười hai duyên khởi. Do nhân duyên đây, mau được viên mãn Bát Nhã sâu
thẳm, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện
nên biết: Các đại Bồ tát khi quán sát pháp duyên khởi như thế, chẳng thấy có
pháp không nhân mà sanh, chẳng thấy có pháp tánh tướng thường trụ, chẳng thấy
có pháp có kẻ tác thọ.
Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật
đem hành tướng như hư không không tận, như thật quán sát mười hai duyên khởi,
dẫn phát Bát nhã Ba la mật, tu các Bồ tát hạnh, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Nếu khi đại Bồ tát thực hành Bát Nhã sâu
xa, dùng hành tướng như hư không vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật, quán
sát đúng mười hai duyên khởi thì bấy giờ đại Bồ tát chẳng thấy sắc uẩn, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức, uẩn. Chẳng
thấy mười hai xứ; chẳng thấy mười tám giới. Chẳng thấy nhãn xúc; chẳng thấy
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.
Chẳng thấy địa giới; chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Chẳng thấy
nhân duyên; chẳng thấy đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.
Chẳng thấy vô minh; chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ,
hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não. Chẳng thấy sáu pháp Ba la mật. Chẳng
thấy 18 pháp Không. Chẳng thấy chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chẳng
thấy tứ Thánh đế. Chẳng thấy bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Chẳng thấy
bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chẳng thấy pháp môn giải thoát
không, vô tướng, vô nguyện. Chẳng thấy tám giải thoát cho đến mười biến xứ.
Chẳng thấy mười địa Bồ tát. Chẳng thấy tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa.
Chẳng thấy năm loại mắt, sáu phép thần thông. Chẳng thấy Như Lai mười lực cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng thấy ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ
đẹp. Chẳng thấy pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Chẳng thấy Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Chẳng thấy quả Dự lưu cho đến Độc giác
Bồ đề. Chẳng thấy tất cả Bồ tát hạnh. Chẳng thấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề của chư Phật. Chẳng thấy Nhất thiết trí trí. Chẳng thấy thế giới của đức
Phật này, chẳng thấy thế giới của đức Phật kia. Chẳng thấy có pháp có thể thấy
được thế giới của Phật này, Phật kia.
Thiện Hiện!
Nếu đại Bồ tát nào thường thực hành như vậy thì chính là hành Bát nhã Ba la mật.
(Q.554, TBBN)
Thiện Hiện nên biết! Nếu khi đại Bồ
tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thì bấy giờ ác ma rất buồn khổ như trúng phải
tên độc. Ví như có người mất cha mẹ, thân tâm buồn khổ, ác ma cũng vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chỉ có một ác ma
thấy các Bồ tát thực hành sâu Bát nhã Ba la mật rất buồn khổ như trúng tên độc,
hay là có nhiều ác ma? Hay tất cả ác ma khắp Tam thiên đại thiên thế giới cũng
đều như thế?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Tất cả ác ma khắp Tam thiên đại
thiên thế giới thấy các Bồ tát thực hành Bát Nhã sâu xa đều rất buồn khổ như
trúng tên độc. Mỗi chúng ma chẳng thể an ổn nơi chỗ ngồi của mình. Vì sao? Vì
nếu đại Bồ tát nào trụ thắng hạnh vi diệu của Bát Nhã sâu xa thì thế gian,
trời, người, A tu la v.v... xét tìm lỗi của người đó hoàn toàn chẳng thể được,
cũng chẳng thể làm rối loạn, chướng ngại.
Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ
tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải siêng năng an trụ
thắng hạnh vi diệu của Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào thường siêng năng an trụ thắng hạnh vi diệu của Bát nhã Ba la mật thì
thường tu viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la
mật.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào có thể chính mình tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa thì có
thể tu đầy đủ viên mãn tất cả Ba la mật, có thể biết rõ ràng việc khó khăn xảy
ra để xa lìa.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào muốn chính mình thủ hộ phương tiện thiện xảo thì nên thực hành Bát Nhã, nên
tu Bát Nhã.
Thiện Hiện nên biết! Nếu khi đại Bồ
tát tu hành Bát nhã Ba la mật, phát khởi Bát nhã Ba la mật thì khi ấy chư Phật
Thế Tôn ở vô lượng vô số thế giới hiện đang thuyết pháp, tất cả đều hộ niệm.
Đại Bồ tát này nên nghĩ: Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia cũng từ Bát
nhã Ba la mật sanh ra Nhất thiết trí. Đại Bồ tát này nghĩ như vậy xong, lại nên
suy nghĩ: Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc, ta cũng sẽ chứng.
Như vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ
tát tu hành Bát nhã Ba la mật, phát khởi Bát nhã Ba la mật, suy nghĩ như vậy
trải qua khoảnh khắc khảy móng tay thì công đức sanh ra hơn công đức đạt được
của các chúng Bồ tát trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu hạnh bố thí,
huống là có thể trải qua một ngày, hay nửa ngày tu hành Bát nhã Ba la mật, phát
khởi Bát nhã Ba la mật và nhớ nghĩ, tư duy về công đức của chư Phật.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào trải qua một ngày, hoặc cho đến chỉ trải qua trong khoảng khảy móng tay, tu
hành Bát nhã Ba la mật, phát khởi Bát nhã Ba la mật, nhớ nghĩ tư duy công đức
của chư Phật thì đại Bồ tát này không lâu sẽ trụ địa vị Bất thối chuyển. Đại Bồ
tát này thường được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng hộ niệm.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
thường được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hộ niệm thì nhất định chứng đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng còn rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác
v.v... Đại Bồ tát này quyết định chẳng còn đọa vào các nẻo ác, quyết định không
sanh trong các địa ngục vô gián, thường sanh nẻo lành, không xa lìa chư Phật.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào tu hành Bát nhã Ba la mật, phát khởi Bát nhã Ba la mật và nhớ nghĩ, tư duy
về công đức của chư Phật trải qua khoảng khảy móng tay thì còn được vô biên
công đức lợi ích thù thắng, huống là trải qua một ngày, hoặc hơn một ngày tu
hành Bát nhã Ba la mật, phát khởi Bát nhã Ba la mật và nhớ nghĩ, tư duy về công
đức của chư Phật, như đại Bồ tát Hương
Tượng(6) thường luôn tu hành Bát nhã Ba la mật, phát khởi Bát nhã Ba la mật
và nhớ nghĩ, tư duy công đức của chư Phật thường không xa lìa, nên đại Bồ tát
này nay được tu hành phạm hạnh ở chỗ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Bất Động.
Thích nghĩa:
(1). Tán hoa: Rải hoa.
(2). Phạm Thế (Phạm, Pàli là Brahmaloka): Cũng gọi
Phạm sắc giới, Phạm thế thiên, Phạm thế giới, Phạm giới. Chỉ cho thế giới do
Phạm Thiên Vương thống lãnh. Từ này cũng có thể được dùng để gọi chung các vị
trời ở cõi Sắc, vì những người sống ở cõi này đã dứt bỏ dâm dục, nên xưa nay ở
Ấn độ hạnh ly dục, thanh tịnh được gọi là Phạm hạnh. (Phỏng theo từ điển Phật Quang).
(3). Phong luân (Phạm là Vàyu-maịđala): Tầng dưới cùng
của thế giới, 1 trong 4 luân của đại địa. Gọi là luân bởi vì hình thể của các
tầng tròn như bánh xe và thể tính rất cứng chắc. (Phỏng theo từ điển Phật
Quang).
(4). Trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược, A tố lạc,
yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, người phi người gọi chung là Thiên
long bát bộ hay Tám bộ chúng. Chỉ các thần giữ gìn pháp của Phật. Đó là: Trời
(Phạm: deva), Rồng (Phạm: nàga), Dạ xoa (Phạm: yakwa), Càn thát bà (Phạm:
gandharva, thần hương hoặc thần âm nhạc), A tu la (Phạm: asura), Ca lâu la
(Phạm: garuđa - chim kim sí), Khẩn na la (Phạm: kiônara - không phải người, ca
sĩ), Ma hầu la già (Phạm: mahoraga - thần trăn). Các loài trên đây đều do đức
của Phật cảm hóa mà qui phục và trở thành quyến thuộc của Phật, thường ở các
cõi Thụ dụng của chư Phật để che chở, giữ gìn Phật pháp.
(5). Hành tướng: (行相) Chỉ cho tác dụng nhận thức hoặc trạng thái
của bóng dáng ảnh hiện trong tâm và tâm sở. Về danh từ Hành tướng, giữa tông
Câu xá và tông Duy thức có sự giải thích khác nhau. Tông Câu xá chủ trương tâm
có thể trực tiếp duyên theo cảnh ngoài tâm, nên cho tâm và tâm sở là năng
duyên, cho cảnh ngoài tâm là sở duyên. Khi duyên cảnh, cảnh hiện ra trong tâm
và tâm sở tức là hành tướng. Câu xá luận ký quyển 1 phần cuối (Đại 41, 26 hạ),
nói: Hành tướng nghĩa là thể của tâm và tâm sở thanh tịnh, khi đối trước cảnh
không có tác ý, nhậm vận tự nhiên mà hiện ra hình tượng, giống như ao nước
trong, như tấm gương sáng, các hình bóng đều hiện rõ . Cũng Câu xá luận ký
quyển 4 còn tiến thêm bước nữa mà nói rõ rằng: Hành nghĩa là hành giải, như tác
dụng liễu biệt; Tướng nghĩa là tướng mạo, như hình tượng, cho nên lấy tướng mạo
của sự vật được liễu biệt làm hành tướng. Nhưng tông Duy thức thì cho rằng tâm
không thể trực tiếp duyên theo cảnh bên ngoài, mà tất cả ảnh tượng đều hiển
hiện trong tâm và tâm lấy đó làm sở duyên, rồi sinh khởi tướng năng duyên. Tức
là trong tâm có 2 tướng năng duyên và sở duyên. Tướng năng duyên gọi là kiến
phần, tướng sở duyên gọi là tướng phần. Kiến phần chính là hành tướng thuộc về
tác dụng nhận thức chứ không phải hình ảnh sự vật. Cho nên, nói theo quan điểm
của tông Duy thức, cái mà tông Câu xá gọi là hành tướng thực ra là hành tướng
tướng phần, khác xa với hành tướng kiến phần của tông Duy thức. Thành Duy thức
luận thuật ký quyển 3 (Đại 43, 318 hạ), nói: Tiểu thừa cho rằng ngoài tâm có
cảnh và lấy đó làm sở duyên; vì Đại thừa không chủ trương ngoài tâm có cảnh nên
lấy hành tướng của Tiểu thừa làm tướng phần của Đại thừa. Đại thừa cho tâm có
thể tự duyên nên lập riêng phần tự thể và lấy đó làm cảnh, vì vậy gọi kiến phần
là hành tướng. [X. luận Thành duy thức Q.2; luận Nhập a Tỳ đạt ma Q.hạ; Thành
duy thức luận chưởng trung xu yếu Q.thượng, Q.hạ; Câu xá luận yếu giải Q.1].
Lối giải thích này quá phức tạp khác với khoa học ngày
nay.
(6). Hương Tượng Bồ tát (Phạm: Gandha-hastin. Dịch âm:
Càn đà Ha đề Bồ tát, Càn đà Ha trú Bồ tát. Kiền đà Ha sa để Bồ tát. Cũng gọi
Hương huệ Bồ tát, Xích sắc Bồ tát, Bất khả tức Bồ tát. Là một trong 16 vị tôn
của Hiền kiếp.
Lược giải:
1. Phật phó
chúc Bát Nhã cho Khánh Hỷ.
Muốn chứng
quả vị Giác ngộ tối cao, thì đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa cần phải khéo
hiểu, thông suốt lục Ba la mật; an trụ 18 pháp không, an trụ Tứ
đế, tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tu hành tám giải thoát,
tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, tu hành tam giải thoát
môn, tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông, Phật mười lực Phật, bốn điều
không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; tu hành
tất cả pháp môn Đà la ni Tam ma địa; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí khiến được viên mãn mà đại Bồ tát ấy chẳng đắc quả vị Giác
ngộ tối cao, mà lại trụ ở bậc Thanh văn, Độc giác, thì không có việc đó. Đại Bồ tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ
tối cao đối với Bát Nhã như thế, khéo hiểu, thông suốt lục Ba la mật cho đến
Nhất thiết tướng trí, thì có thể viên mãn viên mãn hay thành xong sự nghiệp.
Nếu đối với Kinh điển Bát Nhã có thể thọ trì dù chỉ
một câu chẳng quên mất, thì được vô lượng phước; còn nếu có người đối với Kinh
nầy chẳng khéo thọ trì, cho đến một câu cũng quên, thì bị trọng tội, ngang đồng
với lượng phước nói trên. Vì vậy, nên Phật bảo Khánh Hỷ:
“Này Khánh
Hỷ! Ta nay đem Kinh điển Bát nhã Ba la mật sâu xa nầy, ở trước vô lượng đại
chúng trời, người, A tu la v.v... phó
chúc cho ngươi. Này Khánh Hỷ! Nay ta nói với ngươi: Có các tịnh tín muốn
chẳng bỏ Phật, muốn chẳng bỏ Pháp, muốn chẳng bỏ Tăng, cũng muốn chẳng bỏ sở
chứng quả vị Vô Thượng Giác ngộ của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, thì
nhất định chẳng nên lìa bỏ Kinh điển Bát Nhã sâu xa.
Này Khánh
Hỷ! Đây là pháp dạy bảo trao truyền cho các đệ tử của chư Phật. Nếu thiện nam
tín nữ nào, đối với Kinh điển Bát Nhã Bát Nhã sâu xa này, ưa thích lắng nghe,
thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, dùng vô lượng cách, vì người rộng nói, phân
biệt khai thị, trình bày an lập, khiến họ dễ hiểu thì thiện nam tín nữ ấy mau
chứng quả vị Vô Thương Giác ngộ, sắp viên mãn Nhất thiết trí. Vì sao? Vì quả vị
Vô Thượng Giác ngộ, sở đắc của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào
Bát Nhã sâu xa như thế mà được phát sanh”.
2. Cúng
dường, tôn trọng ngợi khen Bát Nhã
tức là cúng
dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật mười phương.
“Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát nào cung kính, cúng
dường, tôn trọng, khen ngợi Bát Nhã sâu xa thì chính là hiện tiền cung kính,
cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Ta và chư Phật trong mười phương ba đời.
Khánh Hỷ nên
biết! Nếu đại Bồ tát nào nghe Bát Nhã sâu xa, phát tâm thanh tịnh, cung kính,
ưa thích thì chính là phát tâm thanh tịnh, cung kính, ưa thích chứng đắc quả vị
Vô Thượng Bồ đề của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, hiện tại, vị
lai.
Khánh Hỷ!
Nếu ngươi ưa mến Ta, không xa rời Ta thì cũng phải ưa mến, không xa rời Kinh
điển Bát Nhã sâu xa, cho đến một câu cũng đừng để quên mất.
Khánh Hỷ! Ta nói nhân duyên phó chúc Kinh điển Bát Nhã
sâu xa như thế, dù trải qua vô lượng trăm ngàn đại kiếp cũng không thể nói hết.
Tóm tắt mà
nói, như Ta đã là Đại sư của các ngươi thì nên biết Bát Nhã sâu xa cũng là Đại
sư của các ngươi. Các ngươi, trời, người, A tu la v.v... kính trọng Ta thì cũng
phải kính trọng Bát Nhã sâu xa.
(...)Thế nên Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba la mật
này giao phó cho ngươi, ngươi nên chính mình thọ trì, đừng để quên mất. Vì sao?
Vì sáu pháp Bát nhã Ba la mật như vậy chính là kho tàng vô tận của các đức Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Tất cả pháp của Phật đều từ đây mà xuất sinh.
Khánh Hỷ nên biết! Pháp yếu mà
chư Phật Thế Tôn ba đời thuyết ra đều là từ kho tàng vô tận của sáu pháp Ba la
mật lưu xuất.
Khánh Hỷ nên
biết! Chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đều nương kho tàng vô tận của sáu
pháp Ba la mật tinh tấn tu học mà chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề.
3. Tất cả
pháp chẳng phải là cảnh giới mà nhãn căn có thể đạt được.
Hầu như chỗ nào Kinh cũng nói “Tánh tất cả pháp không
người tu; không người thấy, không người biết, không người chứng, không hành
động, không tạo tác...”, như trong lời phó chúc của phẩm này, Phật
bảo:
“Khánh Hỷ
nên biết! Vì pháp chẳng tu pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp,
pháp chẳng chứng pháp.
Khánh Hỷ nên
biết! Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết,
không người chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn
toàn không tác dụng. Người thủ, sự thủ đều như hư không, vì tánh xa lìa vậy. Vì
tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, người và sự nghĩ bàn đều như hóa nhân, vì tánh
xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng sáng v.v...
chẳng chắc thật vậy.
Khánh Hỷ nên
biết! Nếu đại Bồ tát luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy, luôn biết như vậy,
luôn chứng như vậy thì chính là hành Bát nhã Ba la mật, cũng không chấp trước
tướng các pháp này.
Khánh Hỷ nên
biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì chính là học Bát nhã Ba la mật”.
Tại sao các pháp hoàn toàn không có tác dụng? Vì pháp
tánh vô động, có động có chuyển là do con người không phải do pháp. Nên Phật
bảo Khánh Hỷ Bồ tát luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy, luôn biết như vậy, luôn
chứng như vậy thì chính là hành Bát nhã Ba la mật.
Phẩm này nói tất cả pháp chẳng phải là cảnh giới nhãn
căn của phàm phu có thể đạt được. Đó là cái khó hiểu phải không? Vì vậy, trong
Bát Nhã mới nói tất cả pháp là vô tướng.
Cái thấy của phàm phu lúc nào cũng đòi hỏi phải có đối tượng, không có đối
tượng thì không thấy. Vì vậy, cái thấy này mới gặp nhiều mất mát, trở ngại.
“Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn kia bỗng dại khờ”. Đó là cái thấy
đau thương của Hàn Mạc Tử. Thấy mà không thấy đối tượng mà thấy tánh thì mới siêu xuất chốn hồng trần!
4. Hành
tướng Bát Nhã.
Để trả lời câu hỏi của Thiện Hiện Bồ tát làm thế nào
để dẫn phát Bát nhã Ba la mật? Phật bảo: “Nên quán vô minh như hư không vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la
mật; nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão,
tử, sầu thán, khổ, ưu não như hư không vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật.
Các đại Bồ tát nên làm như thế là dẫn phát Bát nhã Ba la mật”.
“Rồi Phật bảo tiếp:
Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ tát khi quán sát pháp
duyên khởi như thế, chẳng thấy có pháp không nhân mà sanh, chẳng thấy có pháp
tánh tướng thường trụ, chẳng thấy có pháp có kẻ tác thọ.
Thiện Hiện
nên biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đem hành tướng như hư không
không tận, như thật quán sát mười hai duyên khởi, dẫn phát Bát nhã Ba la mật,
tu các Bồ tát hạnh, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện
nên biết! Nếu khi đại Bồ tát thực hành Bát Nhã sâu xa, dùng hành tướng như hư
không vô tận để phát khởi Bát Nhã, quán sát đúng mười hai duyên khởi thì bấy
giờ đại Bồ tát chẳng thấy sắc uẩn, chẳng
thấy thọ, tưởng, hành, thức, uẩn. Chẳng thấy mười hai xứ; chẳng thấy mười
tám giới. Chẳng thấy nhãn xúc; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc v.v… cho
đến chẳng thấy có pháp có thể thấy được thế giới của Phật này, Phật kia.
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào thường thực hành như
vậy thì chính là hành Bát nhã Ba la mật”. (Q.554,
TBBN)
Đây là pháp quán 12 duyên khởi, khó giác, khó hành.
Nếu quán được như Phật dạy như trên thì có thể chứng: Chẳng có pháp nào không
do duyên hợp mà có, chẳng thấy có pháp tánh tướng thường trụ, chẳng thấy pháp
có kẻ tác thọ. Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đem hành tướng như hư
không không tận, như thật quán sát mười hai duyên khởi như thế, để dẫn phát Bát
nhã Ba la mật, tu Bồ tát hạnh, mau chứng Vô Thượng Bồ đề.
Nếu Bồ tát thực hành Bát Nhã sâu xa, dùng hành tướng
như hư không vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật, quán sát đúng mười hai
duyên khởi thì bấy giờ Bồ tát chẳng
thấy sắc uẩn, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức, uẩn, chẳng thấy mười hai xứ;
chẳng thấy mười tám giới cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do chẳng thấy
nên chẳng chấp. Nếu thường hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật. Tu hành Bát
nhã Ba la mật phải như thế.
Nhưng người đời
thường hành ngược lại, đôi khi lấy đau thương mất mát làm cảnh mộng. Tuy chịu
nhiều khổ lụy nhưng sẵn sàng chấp nhận “có còn hơn không”. Như bài thơ “Thà là
giọt mưa vỡ trên tượng đá” của Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Duy phổ nhạc:
“Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá
Thà như giọt mưa khô trên tượng đá
Thà như mưa gió đến ôm tượng đá
Có còn hơn không, có còn hơn không
Có còn hơn không, có còn hơn không”.
Người đời cũng thường nói “Thà một phút huy hoàng rồi
chợt tắt, còn hơn là le lói suốt trăm năm”. Cái chết là ở chỗ đó. Ôm mộng và
chết theo mộng có còn hơn không. Hai mặt của cuộc đời là vậy. Chọn lựa vẫn ở
con người, nên đừng lấy làm lạ tại sao chúng sanh phải chịu nhiều khổ lụy trong
luân hồi sanh tử! Chỉ có những ai biết “hồi đầu thị đạo” thì mới có thể tháo gỡ
những bế tắc của cuộc đời! Một tư tưởng gia khuyên rằng: “Phải biết chọn lựa
giữa các ham muốn”. Vậy, chọn lựa phiền não hay Bồ đề? Sanh tử hay Niết bàn?
Nhưng tiếc thay tu hành không có chọn lựa. Chọn lựa là phân biệt chấp trước.
Vậy, nếu vì đời vì đạo mà phải chọn lựa thì nên nhớ đến tứ vô lượng tâm là tốt!
---o0o---