XX. PHẨM
“THẮNG Ý LẠC”
Phần đầu
quyển 564, Hội thứ V, ĐBN.
Tóm lược:
Quyển thứ
564
(Ai là bạn lành chơn tịnh của Bồ tát)
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát
với ý muốn thù thắng, cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì thường
nên gần gũi cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi bạn lành chơn tịnh.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những ai là bạn lành
chơn tịnh của Bồ tát?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Chư Phật đều là bạn lành của Bồ
tát. Nếu người nào có thể tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa, dạy bảo truyền trao cho
các chúng Bồ tát, làm cho ngộ nhập pháp môn sâu xa Bát nhã Ba la mật, cũng được
gọi là bạn lành của Bồ tát. Bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nên biết cũng là bạn lành
của Bồ tát. Như vậy, sáu pháp Ba la mật là thầy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng,
là bó đuốc, là sự rực rỡ, là sự sáng soi, là nhà cửa, là sự hộ trì, là chỗ quay
về, là nơi hướng đến, là hòn đảo, là cồn bãi, là cha lành, là mẹ hiền của các
Bồ tát. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương sáu pháp Ba la mật mà được
thành tựu sự nghiệp công đức. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật như thế có khả năng
thu nhiếp, hộ trì khắp tất cả Phật pháp.
Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ
tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nên học sáu pháp Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát
muốn học sáu pháp Ba la mật thì nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, quán
sát nghĩa lý, Kinh điển Bát Nhã sâu xa, cầu xin xác quyết điều nghi ngờ. Vì
sao? Vì Kinh điển Bát Nhã sâu xa này làm tôn chỉ, làm người dẫn đường, làm mẹ
sinh mẹ dưỡng cho sáu pháp Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ tát
muốn được hạnh không theo người khác chỉ, muốn trụ bậc không theo người khác
dạy, muốn dứt nghi cho tất cả hữu tình, muốn mãn nguyện tất cả hữu tình, thì
nên học Bát Nhã sâu xa như thế.
(Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa lấy
gì làm tướng?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Bát Nhã sâu xa lấy vô ngại làm tướng.
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có nhiều nhân duyên
nên Bát Nhã sâu xa có vô ngại tướng; tất cả các pháp khác cũng có tướng đó
chăng?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Có nhân duyên nên Bát Nhã sâu xa
có vô ngại tướng, các pháp khác cũng có thể nói là có. Vì sao? Vì tất cả pháp như Bát Nhã đều là ly, là không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
là ly, là không, thì tại sao hữu tình có nhiễm, có tịnh? Vì sao? Vì chẳng phải
pháp ly pháp không có thể nói có nhiễm có tịnh, chẳng phải pháp ly pháp không
có thể chứng Bồ đề, chẳng phải lìa pháp ly pháp không, riêng có pháp có thể
đắc. Làm sao con hiểu được nghĩa như thế?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Hữu tình thường
có ngã ngã sở và tâm chấp ngã ngã sở không?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Đúng như thế.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Vì hữu tình do
chấp ngã và ngã sở mà có ly, có không chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Đúng như thế.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Hữu tình do chấp
ngã, ngã sở nên lưu chuyển sanh tử phải không?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Đúng như thế.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Hữu tình lưu chuyển sanh tử như
thế nên tạo ra tạp nhiễm và thanh tịnh. Do các hữu tình chấp trước sai lầm về
ngã và ngã sở nên nói có tạp nhiễm, nhưng ở trong đó chẳng có tạp nhiễm. Do các
hữu tình không chấp trước về ngã và ngã sở một cách sai lầm nên nói có thanh tịnh,
nhưng ở trong đó chẳng có thanh tịnh.
Thế nên, này Thiện Hiện! Mặc dù tất
cả pháp đều ly, đều không mà các hữu
tình có thể thi thiết có nhiễm, có tịnh. Nếu các Bồ tát năng biết như thế gọi
hành Bát nhã Ba la mật.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Tuy tất
cả pháp đều ly, đều không nhưng các hữu tình có nhiễm, có tịnh. Nếu các Bồ tát
biết như thế thì chẳng hành sắc, thọ, tưởng, hành, thức; thế gian, trời, người,
A tu la v.v... đều chẳng thể chế phục, hơn tất cả hạnh tu hành của Thanh văn và
Độc giác, đạt đến chỗ không gì hơn.
Các đại Bồ tát này do tác ý tương
ưng với Bát nhã Ba la mật này, nên ngày đêm an trú phương tiện thiện xảo, hướng
thẳng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy!
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ngươi thế
nào? Giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm bộ này đồng một lúc đều được thân
người, rồi đều phát Bồ đề tâm, trọn
đời bố thí; lại đem việc bố thí này hồi hướng Bồ đề. Do nhân duyên này được
phước nhiều chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Rất nhiều! Bạch Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu có Bồ tát dù chỉ một ngày an trụ tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật,
thì đạt được công đức nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì Bồ tát như
thế, đúng như thật an trụ tác ý tương ưng Bát Nhã sâu xa, như thế thì có thể
làm ruộng phước cho tất cả hữu tình. Do Bồ tát này phát sanh tâm từ nên các
loài hữu tình không ai bằng, chỉ trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Bồ tát như thế đầy đủ trí tuệ thù
thắng vi diệu. Do trí tuệ thù thắng vi diệu nên thấy các hữu tình chịu khổ não
lớn như bị hình phạt chém giết, sanh lòng đại bi. Lại dùng thiên nhãn thấy loài
hữu tình lãnh thọ nghiệp vô gián, đọa chốn vô gián, chịu các khổ não, hoặc bị
lưới tà kiến phủ che, chẳng thấy được đường chánh. Thấy xong thương xót, càng
sanh lòng nhàm chán, sợ hãi duyên khắp tất cả hữu tình ở thế gian, khởi tác ý
tương ưng với đại từ bi: Ta phải làm bậc
thầy dẫn đường lớn để cho tất cả hữu tình thoát khỏi các khổ. Mặc dầu nghĩ
như thế nhưng không an trú tưởng này, cũng chẳng an trú tưởng khác. Như thế gọi
là Bồ tát có ánh sáng trí tuệ lớn.
Do an trú trên sự an trú này nên có
thể làm ruộng phước cho tất cả thế
gian. Tuy chưa chứng đắc Nhất thiết trí trí, nhưng đối với Bồ đề không còn thối
chuyển, có thể thọ nhận tất cả sự cúng dường của thí chủ. Bồ tát như thế là an
trú Bát nhã Ba la mật, đã có thể đền ơn thí chủ một cách trọn vẹn, cũng
gần gũi Nhất thiết trí trí.
Thế nên, Bồ tát muốn chẳng nhận lãnh
sự cúng dường của tín thí thế gian một cách hư dối, muốn chỉ dạy con đường chơn
tịnh cho hữu tình, muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình, muốn làm ánh sáng lớn cho thế gian, muốn giải thoát cho hữu tình ra khỏi
lao ngục sanh tử, muốn ban cho hữu tình pháp nhãn thanh tịnh, thì thường nên an
trú tác ý tương ưng với Bát Nhã sâu xa. Do tác ý này nên nói ra điều gì cũng
đều tương ưng với nghĩa thú của Bát nhã Ba la mật. Các tác ý khác không bao giờ
khởi lên. Vì sao? Vì Bồ tát tác ý tương ưng Bát Nhã sâu xa như thế, tiếp nối
lưu chuyển.
Ví như có người trước kia chưa từng
có ngọc báu mạt ni, nay có được, hoan hỷ vui mừng, nhưng chẳng may bị mất, lòng
rất buồn khổ, luôn nhớ nghĩ than tiếc khôn nguôi, suy nghĩ nên tìm phương kế gì
để tìm được ngọc ấy. Do đó người kia luôn nhớ nghĩ đến ngọc báu này không lúc
nào quên. Bồ tát cũng thế, thường an trú tác ý tương ưng Bát Nhã sâu xa. Nếu
chẳng an trú tác ý như thế thì làm tiêu tan tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp và
các tác ý đều lìa tự tánh thì vì lẽ gì Bồ tát chẳng lìa tác ý tương ưng Nhất
thiết trí trí của Bát Nhã?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu các Bồ tát biết tất cả pháp và
các tác ý đều lìa tự tánh thì các Bồ tát chẳng lìa Nhất thiết trí trí của Bát
nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí của Bát Nhã và các tác ý, tự tánh
đều Không, không tăng, không giảm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát Nhã sâu xa
tự tánh thường là Không, không tăng, không giảm thì làm sao Bồ tát tăng trưởng Bát
Nhã Trí để có thể gần gũi Bồ đề?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba
la mật, biết tất cả pháp không tăng, không giảm thì đối với Bát Nhã sâu xa cũng
không tăng, không giảm. Nếu các Bồ tát có thể nghe biết tất cả pháp không tăng,
không giảm như thế mà chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm, thì các Bồ tát
này hành Bát Nhã sâu xa đã đạt đến rốt ráo, an trụ địa vị Bồ tát Bất thối
chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Có phải chính Bát
Nhã có thể hành Bát Nhã chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Bát Nhã
có pháp có thể đắc, có thể hành Bát Nhã chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải ngay nơi
Không của Bát Nhã có thể hành Bát Nhã chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Không
của Bát Nhã, có pháp có thể đắc, có thể hành Bát Nhã chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải chính nơi
Không, có thể hành Bát Nhã chăng?
- Này Thiện
Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Không,
có pháp có thể đắc, có thể hành Bát Nhã chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải chính nơi
Không mà có thể hành Không chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Không,
có pháp có thể đắc, có thể hành Không chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải chính nơi Bát
nhã Ba la mật có thể hành Không chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Bát nhã
Ba la mật có pháp có thể đắc, có thể hành Không chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải chính nơi
sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có thể hành Bát Nhã và hành Không chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa sắc,
thọ, tưởng, hành, thức v.v... có pháp có thể đắc, có thể hành Bát Nhã và hành
Không chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải chính nơi
Không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có thể hành Bát Nhã và hành Không
chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Không
của sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có thể hành Bát Nhã và hành Không chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!
Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu như thế thì Bồ
tát dùng những pháp nào để có thể hành Bát Nhã và hành Không?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có
pháp có thể hành Bát Nhã và hành Không chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có Bát
Nhã và thấy Không là chỗ hành của các Bồ tát chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Pháp mà ông không
thấy, pháp này có thể đắc được chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! không!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Pháp chẳng thể
đắc đó có sanh chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Thật tướng của pháp mà ngươi chẳng thấy, chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp
nhẫn(1) của Bồ tát. Bồ tát thành tựu nhẫn như thế thì được thọ ký quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng gọi là đạo Vô sở úy của Như Lai. Nếu các Bồ tát
siêng năng hành đạo này mà chẳng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đại trí,
diệu trí, tự nhiên trí, Nhất thiết trí trí và Như Lai trí thì không có lẽ đó.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát vì các pháp
vô sanh mà được thọ ký quả vị giác ngộ của Phật chăng?
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải vậy.
- Bạch Thế Tôn! Nếu thế thì làm sao
các Bồ tát có thể được thọ ký quả vị giác ngộ của Phật?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có
pháp để thọ ký quả vị giác ngộ của Phật chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Không! Con chẳng
thấy có pháp có thể được thọ ký quả vị giác ngộ của Phật, cũng chẳng thấy có
người có thể chứng đắc quả vị giác ngộ của Phật, thời chứng, nơi chứng và do
đây chứng, hoặc có pháp được chứng cũng đều chẳng thấy.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Vì tất cả pháp bất khả đắc nên chẳng
nên nghĩ: Đây là năng chứng, đây là sở chứng quả vị giác ngộ của Phật.
Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Trí như thế rất là
sâu xa, khó thấy, khó biết, rốt ráo xa lìa, chẳng phải với chút ít căn lành mà
các loài hữu tình có thể đối với Bát Nhã sâu xa như thế biên chép, lắng nghe,
thọ trì, đọc tụng.
Bấy giờ Phật bảo trời Đế Thích:
- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi
nói. Kiều thi ca! Giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm bộ này đều thành tựu
mười thiện nghiệp đạo, phước như thế so với phước đạt được của người có thể
biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Kinh điển Bát Nhã sâu xa thì trăm phần
chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, cho đến vô số cực phần cũng không
bằng một.
Khi ấy có Bí sô bảo với trời Đế
Thích:
- Nếu có người biên chép, lắng nghe,
thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật thì đạt được công đức hơn Ngài?
Trời Đế Thích thưa:
- Các loài hữu tình kia chỉ cần khi
mới phát tâm đầu tiên, còn hơn tôi, huống là biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc
tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp Bát nhã Ba la mật. Bí sô nên biết! Loài
hữu tình đó chính là Bồ tát. Bồ tát ấy đạt được lượng phước hơn khắp tất cả thế
gian, trời, người, A tu la v.v... Lượng phước mà Bồ tát ấy đã đạt được cũng hơn
tất cả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác; cũng hơn tất cả Bồ tát
xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật tu hạnh bố thí, tịnh giới,
an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật và các công đức khác.
Bí sô nên biết! Nếu các Bồ tát đúng
như lời dạy dùng phương tiện thiện xảo tu hành Bát Nhã sâu xa, thì các Bồ tát
này hơn khắp tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... Thế gian, trời,
người, A tu la v.v... đều nên cúng dường. Vì sao? Vì các Bồ tát này có thể đúng
theo như lời dạy mà tu hành viên mãn Bát Nhã sâu xa, các Bồ tát này có thể tiếp
nối chủng tánh Nhất thiết trí trí không mất, thường chẳng xa lìa chư Phật Thế
Tôn, thường không xa lìa tòa Bồ đề vi diệu, thường có thể cứu vớt các loài hữu
tình chìm đắm trong bùn sanh tử.
Các Bồ tát này khi tu học như thế,
thường học pháp cần nên học của Bồ tát, chẳng học pháp của Nhị thừa. Các thiên
thần v.v... thường theo ủng hộ, bốn Đại Thiên Vương đi đến chỗ của người đó
cung kính, cúng dường, đồng thưa: “Lành thay Đại sĩ! Nên siêng năng tinh tấn tu
học pháp cần nên học của chúng Bồ tát, sẽ mau được an tọa tòa Bồ đề vi diệu,
mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như Thiên vương xưa kia dâng bốn
bát, con cũng sẽ dâng”.
Bí sô nên biết! Đối với các Bồ tát
này, Thiên Đế chúng con còn đi đến chỗ của vị ấy cung kính, cúng dường, huống
là các thiên thần khác.
Bí sô nên biết! Các Bồ tát này khi
học như thế, tất cả Như Lai và các Bồ tát, chư thiên, rồng v.v... thường theo
hộ vệ. Do nhân duyên này, tất cả hiểm nạn nguy khốn ở thế gian chẳng thể làm
tổn hại, cũng chẳng có thể phát sanh các thứ bệnh.
Bí sô nên biết! Các Bồ tát này đạt được những lợi ích thù thắng hiện tại
cũng như công đức ở đời sau vô lượng
vô biên.
Khi ấy, A Nan Đà thầm nghĩ: Thiên
chủ Đế Thích tự mình có biện tài khen ngợi công đức của Bồ tát như thế, hay là
nhờ oai thần của Như Lai gia bị?
Trời Đế Thích nương oai thần của
Phật, biết được ý nghĩ của A Nan Đà, nên bạch:
- Thưa Đại đức! Chẳng phải biện tài
của tôi mà chính là nhờ oai thần của Như Lai gia bị nên có thể nói như thế.
Bấy giờ, Phật bảo A Nan Đà:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Hôm
nay trời Đế Thích nương oai thần của Phật nên có thể nói như thế.
Khánh Hỷ nên biết! Khi Bồ tát tư duy
tu học Bát nhã Ba la mật, tất cả ác ma ở Tam thiên đại thiên đều sanh nghi sợ,
đều nghĩ rằng: Các Bồ tát đây đang ở giai đoạn chứng thật tế, hay rơi bậc Nhị
thừa, hay thẳng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp làm
trống cảnh giới ta!
Thích nghĩa:
(1). Vô sanh
pháp nhẫn: Pháp nhẫn nhục của hàng Bồ Tát do chứng đắc được lý vô sanh, không
thấy có các hữu tình gây hại cho mình. Bồ Tát chứng đắc pháp nhẫn này thì tâm
bình đẳng không phân biệt đối với tất cả chúng sanh. Vô Sanh tức chơn lý không
sanh không diệt, Nhẫn, có nghĩa là tin chịu giữ gìn. Là nói dùng trú vô lậu an
trú trong thể chơn lý bất sanh bất diệt, tâm không lay động. Đức nhẫn nhục của
người tu học đắc đạo thể nhập chân lý: Các pháp không sanh không diệt. Bậc tu
hành nếu hiểu các pháp không sanh, không diệt, tức là hiểu thật tướng sự vật
vốn không Sanh Diệt. Hiểu như thế thì không còn lo rầu, phiền não, đối với
chúng sinh, được vậy gọi là vô sanh pháp nhẫn. Đi đến chỗ không còn sinh tử
luân hồi. Trong Đại Trí Độ luận quyển 50 nói: “Đối với thật tướng vô Sanh Diệt
của các pháp, tin chịu thông suốt không ngăn ngại, không thối lui, gọi là Vô
Sanh Nhẫn”. (Bộ từ điển: Chú Thích Phật Học - Pháp Thí Hội)
Sơ giải:
Phần đầu của
phẩm này trước hết nói thế nào là bạn lành chơn tịnh hay thiện tri thức của Bồ
tát. Các phẩm trước tương đương với phẩm này của 4 Hội đầu đã thuyết quá rõ
rồi. Ở đây chúng ta chỉ cần nhớ đoạn Kinh ngắn này:
“Nếu người nào có thể tuyên thuyết
Bát Nhã sâu xa, dạy bảo truyền trao cho các chúng Bồ tát, làm cho ngộ nhập pháp
môn sâu xa Bát nhã Ba la mật, cũng được gọi là bạn lành của Bồ tát. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh
lự, Bát nhã Ba la mật, nên biết cũng là bạn lành của Bồ tát. Như vậy, sáu pháp Ba
la mật là thầy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng, là bó đuốc, là sự rực rỡ, là sự
sáng soi, là nhà cửa, là sự hộ trì, là chỗ quay về, là nơi hướng đến, là hòn
đảo, là cồn bãi, là cha lành, là mẹ hiền của các Bồ tát. Chư Phật quá khứ, vị
lai, hiện tại đều nương sáu pháp Ba la mật mà được thành tựu sự nghiệp công
đức. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật như thế có khả năng thu nhiếp, hộ trì khắp
tất cả Phật pháp.
Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ
tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nên học sáu pháp Ba la mật”.
Chúng ta
hoàn toàn thông suốt điểm này. Tu cần phải có bạn có thầy. Nếu may mắn được
thầy giỏi, bạn tốt trợ lực thì mau tiến hơn và một khi có bạn có thầy tốt thì
phải kính trọng như đại sư của mình, phải cung phụng cúng dường như tôn trọng
như cung kính cúng dường chư Phật. Câu nói này của Phật hơi quá đáng đối với
chúng ta. Nhưng ngạn ngữ có câu “Kính thầy mới được làm thầy”. Đó là thật tế!
Sau đây là
các điểm cần lưu ý ôn tập phẩm này:
1. Thế nào
là nhiễm tịnh? Vì chúng sanh chấp ngã-ngã sở mà thấy có nhiễm có tịnh, thật ra
chẳng có nhiễm tịnh. Đây có thể nói là quan niệm về cái thấy cái biết của chư
Phật nói theo Đệ nhất nghĩa đế?
“Phật bảo Thiện Hiện:
- Hữu tình lưu chuyển sanh tử như
thế nên tạo ra tạp nhiễm và thanh tịnh. Do các hữu tình chấp trước sai lầm về ngã và ngã sở nên nói có
tạp nhiễm, nhưng ở trong đó chẳng có tạp
nhiễm. Do các hữu tình không chấp trước về ngã và ngã sở một cách sai lầm
nên nói có thanh tịnh, nhưng ở trong đó
chẳng có thanh tịnh.
Thế nên, này Thiện Hiện! Mặc dù tất
cả pháp đều ly, đều không mà các hữu
tình có thể thi thiết có nhiễm, có tịnh. Nếu các Bồ tát năng biết như thế gọi
hành Bát nhã Ba la mật”.
Làm sao với
tri kiến thường tục sẳn có trong máu mủ từ bao nhiêu đời kiếp của chúng ta có
thể chấp nhận quan điểm này? Chúng tôi tạm gọi đây là “quan điểm” của Phật.
Trong Phật đạo thường nêu hai vấn đề đối nghịch nhau: 1. Gọi là Bản hữu, và 2. Là
Tu sanh.
- Bản hữu là cái gì tự có như Phật tánh.
Ai sanh ra cũng có tánh này dầu ở Nam hay Bắc, dầu ở Đông hay Tây, dầu ở chỗ
nhiễm hay tịnh, nó vẫn không thay đổi ở kiếp này hay ở muôn vàn kiếp khác. Phật
tánh là cái vô nhiễm vô tịnh. Bản lai vốn từ xưa đã vậy mà nay cũng chẳng có gì
khác.
- Còn thế nào là Tu sanh: Một quan niệm khác cho rằng do hoàn cảnh huân tập mà tánh
con người thay đổi vì vậy mới thấy có tốt xấu, nhiễm tịnh... Giống như con
thạch sùng (thằn lằn), sống trong nhà, tường vôi trắng sạch thì có màu trắng,
sống trong hang núi dơ bẩn thì đen đúa, loan lổ. Con người muốn trở thành thánh
thiện thì phải tu tập. Có tu tập mới trở thành thánh thiện. Môi trường như thế
nào thì vật như thế đó. Đó là huân tu.
Phải thấu suốt hai vấn đề đó thì mới có những
phán đoán đúng đắn về Tục đế hay Thắng nghĩa đế trong đạo Phật? Phật đạo không
chia thế gian làm hai: Bản chất của xã hội loài người là chia chẻ phân hóa bất
tận, nên mới thấy tội phước nhiễm tịnh. Nhưng Phật bảo không có nhiễm tịnh.
Nhiễm tịnh là do con người chứ không do bản chất của xã hội. Chúng sanh bằng cái
nhìn hữu ngã che mờ căn tánh, làm sao thấy được chỗ này? Bồ tát, Phật vì diệt
được tham ái, ngã chấp pháp chấp, nên chỉ thấy một màu thanh tịnh là bản hữu
của chúng sanh vốn vô cấu bất nhiễm, không tội không phước. Đó là cái nhìn bất
nhị của Đệ nhất nghĩa đế. Vì Thánh giả lìa tướng, không phân biệt, lấy vô chấp
vô ngại làm tướng nên nhập được chơn như, pháp giới, pháp tánh mà không thấy có
nhiễm có tịnh.
2. Điểm vấn
nạn khác được đặt ra của phẩm này là “Tức Không hay lìa Không, có pháp có thể
đắc, có thể hành Bát Nhã hay hành Không chăng?”
Sau khi gạn
hỏi hàng chục lần: Có phải chính nơi Không hay lìa Không, có pháp có thể đắc,
có thể hành Bát nhã Ba la mật chăng? Có phải chính nơi Bát nhã Ba la mật có thể
hành Không chăng? Có phải lìa Bát nhã Ba la mật có pháp có thể đắc, có thể hành
Không chăng? Có phải chính nơi Không có thể hành Không chăng? Có phải lìa
Không, có pháp có thể đắc, có thể hành Không chăng? Có phải chính nơi Bát nhã
Ba la mật có thể hành Không chăng? Có phải lìa Bát nhã Ba la mật có pháp có thể
đắc, có thể hành Không chăng? Với bao câu hỏi dồn dập của Thiện Hiện như thế,
Phật đều trả lời là chẳng phải!
“Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu như thế thì Bồ
tát dùng những pháp nào để có thể hành Bát Nhã và hành Không?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có
pháp có thể hành Bát Nhã và hành Không chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có Bát
Nhã và thấy Không là chỗ hành của các Bồ tát chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Pháp mà ông không
thấy, pháp này có thể đắc được chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! không!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Pháp chẳng thể
đắc đó có sanh chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Thật tướng của pháp mà ngươi chẳng thấy, chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp
nhẫn của Bồ tát. Bồ tát thành tựu nhẫn như thế thì được thọ ký quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng gọi là đạo Vô sở úy của Như Lai. Nếu các Bồ tát
siêng năng hành đạo này mà chẳng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đại trí,
diệu trí, tự nhiên trí, Nhất thiết trí trí và Như Lai trí thì không có lẽ đó”.
Nếu Bồ tát
hành Bát Nhã và hành Không với Vô sanh pháp nhẫn này thì được thọ ký Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Bởi vì Bồ tát hiểu thật tướng của các pháp vốn không sanh diệt, thì
không còn lo buồn, phiền não, chấp trước thì có cơ hội chứng trí vô ngại. Nên
Đại Trí Độ luận quyển 50 nói: “Đối với thật tướng vô Sanh Diệt của
các pháp, tin chịu thông suốt không ngăn ngại, không thối lui, gọi là Vô Sanh
Nhẫn”. Nhờ nhẫn này mà Bồ tát tu lục độ,
hành Bồ tát đạo, hạnh nguyên vuông tròn nên mới được thọ ký Vô Thượng Bồ đề.
Đó là điểm
khó thấy khó chứng, phải tu đến địa vị Bát địa hay Bất động địa Bồ tát (địa vị
tu chứng thứ 8 trong Thập địa Bồ Tát) mới
có thể nhập được pháp môn này. Nên vì vậy Phật bảo Thiện Hiện:“Thật tướng
của pháp mà ngươi chẳng thấy, chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát”. Đó là pháp quá cao mà bậc A la hán thành tụ
đạo nghiệp như Thiện Hiện mà còn không thấy, không đắc hiến chi những chúng
sanh sơ cơ như chúng ta. Vậy, nên cần ghi nhớ Vô sanh pháp nhẫn là gì để tìm
tòi học hỏi nếu có cơ hội.
---o0o---