V. PHẨM “NIỆM TRỤ”
Phần sau
quyển 568, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương
đương với phẩm 4: Niệm Xứ của Kinh TTVBN)
Gợi ý:
Đây là một
bài pháp tuy ngắn nhưng giáo nghĩa thật vô bờ bến cho những ai tu Bồ tát đạo,
hành Bồ tát hạnh. Nếu có thể tu theo các khuyến dẫn sau đây thì hạnh nguyện sẽ
vuông tròn đối với tất cả Tăng lẫn Tục.
Tóm lược:
Bấy giờ, Tối Thắng từ tòa đứng dậy
che áo bên vai trái, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát hành sâu Bát
nhã Ba la mật có năng lực biết rõ đường chánh, đường tà như vậy thì tâm ấy vin
vào đâu mà trụ?
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết: Các đại Bồ
tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật thì tâm luôn chơn chánh không có mê loạn. Vì
sao? Vì Bồ tát tu tập viên mãn niệm trụ
về thân, thọ, tâm, pháp(tứ niệm xứ
hay tứ niệm trụ). Hễ có đi vào thành ấp, xóm làng nghe nói lợi dưỡng tâm
không tham đắm, nhiễm trước. Giống như Thế Tôn đã dạy trong giới Kinh: Người khéo chánh niệm thì xa lìa các phiền
não.
- Này Thiên
vương! Đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khéo tu niệm trụ về thân như thế nào? Nghĩa là Bồ tát này dùng trí như thật
xa lìa pháp ác bất thiện tương ưng với thân. Quán sát thân này từ đầu đến chân
chỉ có các thứ bất tịnh tội lỗi, vô
ngã, vô lạc, vô thường, bại hoại, tanh hôi, xú uế, do gân mạch dính liền, gớm
ghiếc không đáng nhìn. Quán thân như vậy rồi thì tham dục, chấp thân ngã kiến
không còn sanh khởi. Nhờ nhân duyên đó mà các pháp lành tương ưng đều được tùy
thuận. (Pháp quán này gọi là Quán thân
bất tịnh hay Thân niệm xứ)
- Này Thiên vương! Đại Bồ tát hành Bát
nhã Ba la mật khéo tu niệm trụ về thọ
như thế nào? Nghĩa là Bồ tát này suy nghĩ: Các thọ đều khổ nhưng vì hữu tình điên đảo lầm tưởng cho là vui. Phàm
phu ngu si cho khổ là vui. Thánh giả chỉ nói tất cả đều khổ, vì muốn đoạn khổ
nên cần phải tu tinh tấn và khuyến khích người khác nên tu pháp này. Quán như
vậy rồi thường trụ niệm thọ, không tùy thuận hoạt dụng của thọ mà phải tu hành
đoạn dứt thọ và cũng dạy cho người như vậy. (Pháp
quán này gọi là Quán thọ thị khổ hay Thọ niệm xứ)
- Này Thiên vương! Đại Bồ tát hành
sâu Bát nhã Ba la mật khéo tu niệm trụ
về tâm như thế nào? Nghĩa là Bồ tát này suy nghĩ: Tâm vô thường, người ngu bảo là thường trụ, khổ bảo vui, vô ngã bảo
ngã, bất tịnh bảo tịnh. Tâm đây chẳng trụ, nhanh chóng chuyển đổi; cội gốc của
thùy miên, cửa của các ác thú, là nhân duyên của mọi phiền não hoại diệt các
thiện. Tâm này thường sanh tham, sân, si khó tin tưởng. Tâm dẫn đầu các pháp. Nếu biết rõ tâm thì rõ các pháp. Các pháp thế gian đều do tâm tạo. Tâm
chẳng tự thấy các thứ tội lỗi do mình, hoặc thiện hoặc ác đều do tâm khởi. Tâm
tánh chuyển nhanh như vòng lửa quay bỗng chốc chẳng dừng, như gió ngựa đồng,
như nước bạo động, như lửa năng đốt. Quán như thế khiến nhớ bất động, thì tâm
liền theo mình, chẳng theo sở hành (chẳng
theo sở duyên). Nếu điều phục tâm như thế là điều phục được các pháp. (Pháp quán này gọi là Quán tâm vô thường hay
Tâm niệm xứ)
- Này Thiên vương! Đại Bồ tát hành
sâu Bát nhã Ba la mật khéo niệm trụ về
pháp như thế nào? Nghĩa là Bồ tát này biết như thật thế gian có các pháp ác
bất thiện đó là tham, sân, si và các tập khí phiền não. Cần phải tu các pháp để
đối trị trị tham, sân, si và các tập khí phiền não. Biết như vậy rồi chẳng hành
tham sân si v.v… và dạy người khác nên xa lìa.
Này Thiên vương! Đại Bồ tát hành sâu
Bát nhã Ba la mật đối cảnh khởi niệm như thế nào? Nghĩa là Bồ tát này nếu gặp
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp liền nghĩ: Đối với pháp không chân thật này mà
lại sanh tham ái ư? Đây chỉ là sự đắm trước của phàm phu ngu si, ấy là bất
thiện. (Pháp quán này gọi là Quán pháp vô
ngã hay Pháp niệm xứ)
Như Thế Tôn dạy: Ái thì sanh đắm
trước, đắm trước thì sanh mê lầm, do đó không biết pháp thiện, pháp ác. Vì vậy
đọa vào cảnh giới ác. Bồ tát không (không
nghĩ, không hành) như vậy nên không rơi rớt, không đắm trước cảnh giới và
khiến cho người khác cũng vậy.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật niệm A lan nhã(1). Nghĩa là Bồ tát suy nghĩ: A lan
nhã là chỗ không ồn ào, không người ở, là trụ xứ tịch tĩnh. Trời, rồng, Dược
xoa, có Tha tâm trí đều biết tâm, tâm sở của ta. Ở đây ta không nên khởi tâm tà
vạy. Do suy nghĩ vậy nên được xả ly, đối pháp chánh niệm cần tu hành.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật suy nghĩ: Thành ấp tụ lạc là nơi ồn ào chẳng phải
chỗ đi lại của người xuất gia, vậy không nên đến. Đó là quán rượu, mãi dâm,
vương cung, đánh bạc, ca múa, các chỗ như vậy cần phải xa lìa.
Thiên vương nên
biết: Các đại Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật sâu xa nghe lợi dưỡng liền khởi
chánh niệm thế này: Vì muốn sanh phước cho người nên nhận tài vật rồi bố thí
hết cho người nghèo, chứ chẳng phải do tham đắm mà nhận rồi giữ lấy cho vợ con hay gia đình. Người thực
hành như vậy được người đời khen ngợi, không bao giờ vì mình, vì cái của mình.
Lại suy nghĩ như thế này: Người đời cho rằng hành động như vậy được nổi tiếng
là thi ơn. Nhưng thế gian vô thường, tan biến trong phút chốc. Tại sao người
trí đối với cái không thường, không thực, không lâu dài, không chủ, lại nương
theo đó mà hành, mà khởi ngã, ngã sở.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật vì giáo hóa hữu tình cho đến chính mình nên tự tu
tập, ít muốn vui đủ, mặc áo phấn tảo, tâm thường trong sạch, tín lực vững chắc,
thà bỏ thân mạng chứ không phạm giới; tâm xa lìa kiêu mạn dù mặc áo xấu đi vào thành khất thực nhưng
không hổ thẹn, không lười biếng, siêng tu tinh tấn, việc làm chưa xong thì
không bỏ dở giữa chừng, đối với y phục phấn tảo không bị lỗi lầm, đối với y
phục cũ mục hư nát không khinh chê, chỉ
giữ cái đức của mình, người ly dục mới mặc y phục này, được Như Lai khen
ngợi vì ngăn chặn xan tham, cũng không khen mình mặc áo này, hay chê người
không mặc; người thực hành như thế được chư thiên lễ kính, được Phật tán thán,
Bồ tát hộ trì, Bà la môn v.v... đều cung kính cúng dường.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật thường tu
diệu hạnh thanh tịnh như thế.
Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát hành Bát nhã
Ba la mật với hạnh cao thượng cần gì phải mặc áo phấn tảo này?
Phật bảo:
- Này Thiên vương! Các đại Bồ tát vì
hộ thế gian nên mặc y phục phấn tảo
này. Vì sao? Vì thế gian thấy mặc y phục này thì các điều ác đều dứt và sanh
điều lành.
Này Thiên vương! Ý ngươi nghĩ sao?
Cao hạnh Bồ tát ai bằng Thế Tôn?
Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát tu hạnh cao
thượng trăm ngàn, vạn, ức cho đến vô số cũng không thể sánh bằng Thế Tôn. Vì
sao? Vì Phật là đấng Pháp vương đầy đủ Nhất thiết trí nên không có một pháp nào
mà không thể chiếu soi.
Phật lại hỏi Thiên vương:
- Này Thiên vương! Ý ngươi nghĩ sao?
Phật thị hiện khổ hạnh và tán thán công đức tu hạnh Đầu đà cho tất cả trời,
rồng, Dược xoa, nhơn phi nhơn v.v... để làm gì?
Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đức Phật thị hiện
như thế là giáo hóa các hữu tình có thể độ được và nói pháp đối trị cho các Bồ
tát mới phát tâm v.v... chưa dứt được phiền não.
Phật dạy:
- Đúng vậy! Đúng vậy!
Bồ tát tu hạnh cao thượng mặc y phục
phấn tảo cũng lại như vậy. Cho nên Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đầy đủ phương
tiện thiện xảo làm lợi ích cho hữu tình.
Thiên vương
nên biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật vì thế gian nên chỉ giữ ba
y. Vì sao? Vì tâm ít muốn biết đủ nên chẳng cầu nhiều. Vì không tìm cầu nên
không chứa cất, vì không chứa cất nên không mất mát, vì không mất mát nên không
buồn khổ, vì không buồn khổ nên xa lìa phiền não, vì lìa phiền não nên không
còn đắm trước, vì không đắm trước thì các lậu tận diệt.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, vì muốn làm lợi lạc hữu tình nên cầm bát vào thành
khất thực. Vì sao? Vì các đại Bồ tát luôn huân tập đại bi tâm, quán các hữu
tình đa số nghèo khổ, vì khiến họ giàu vui nên nhận sự cúng dường. Khi vào
thành ấp, uy nghi tề chỉnh, tâm chánh chẳng loạn, khéo nhiếp các căn, bước từ
tốn chậm rãi mà đi, không nhìn ngó hai bên, theo thứ lớp khất thực như pháp,
không bỏ nhà nghèo, đúng lượng khất thực, không tham cầu nhiều, trong bát cơm
ấy sớt một phần bố thí cho kẻ nghèo, cúng dường phước điền. Vì sao? Vì tín thí
khó tiêu và vì sanh phước đức.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo vì các hữu tình thị hiện khất thực.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, thường siêng tu học hạnh A lan nhã, nghĩa là tu phạm hạnh. Đối với các căn không
phát sanh tội lỗi, ưa học hỏi, kham nhẫn tu chánh hạnh, xa lìa ngã và sự sợ
hãi, không đắm trước thân, thường hành tịch tĩnh. Các Bồ tát này thường ưa xuất
gia ở trong chánh pháp, giữ tam luân giới, biết rõ pháp tướng. Như Lai đã từng thuyết giới cho ba hạng
người già, trẻ, trung niên đều được thấu hiểu, chẳng duyên ngoại cảnh, chuyên
niệm tự tâm, chê pháp thế tục, khen pháp xuất gia, điều phục các căn, không
chấp giữ cảnh giới ác. Ở A lan nhã, sống nơi không có hiểm nạn, làng xóm
khất thực, không xa, không gần, nơi ấy có suối nước trong tắm rửa dễ dàng, rừng
nhiều hoa quả, không có thú dữ, hang núi yên tĩnh, ít người. Đối với pháp đã
học đêm ngày ba thời chuyên cần đọc tụng, tiếng không cao, thấp. Tâm không
duyên ngoại cảnh chỉ chuyên trì nhớ niệm. Bà la môn, Sát đế lợi v.v... có đến
chỗ ấy thì niềm nở, vui mừng thăm hỏi, mời ngồi. Quán biết căn tánh để thuyết
pháp cho họ được hoan hỷ, tín thọ, vâng làm. Dùng đủ phương tiện khéo léo giúp
họ xa lìa ngã tâm. Vì vô ngã nên ở nơi vắng vẻ không có sợ hãi, xa lìa sợ hãi
nên vui hạnh tịch tĩnh. Bồ tát dùng phương tiện thiện xảo như thế nên thị hiện
tu hành ở nơi A lan nhã.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật quán biết các hành, suy nghĩ: Các thức ăn uống đều
trong sạch thơm tho, nhưng do lửa thân tiếp xúc biến thành bất tịnh, hủy hoại
hôi hám. Người ngu vô trí luyến ái thân này và đồ ăn uống. Nếu theo Thánh trí
như thật quán sát thì sanh tâm chán ghét không còn say đắm. Thiên vương nên
biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, suy nghĩ: Nhiều hành động sân
giận thì sẽ gây nghiệp ác, ta phải lìa tâm sân để hướng đến chánh đạo, suy nghĩ
chân thật chứ chẳng nói suông. Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát
nhã Ba la mật, suy nghĩ: Các pháp có
sanh tức là nhân duyên, nhân duyên của pháp lại từ duyên khởi. Làm sao
người trí vì pháp duyên sanh hư vọng mà tạo tội lỗi? Trong thân Bồ tát nếu có
chướng ngại thiện pháp tức tự đoạn trừ. Nếu không thể đoạn chướng ngại điều
thiện cho người khác, thì tâm liền buông xả, không nên phát khởi vô minh.
Thế nào gọi là pháp chướng ngại điều
thiện? Nghĩa là không cung kính Phật, Pháp, Tăng và giới thanh tịnh, không kính
đồng học, tự cao khinh thường những người lớn, nhỏ, già, trẻ, hướng đến năm
dục, quay lưng với Niết bàn và phát sanh ngã kiến, hữu tình kiến, cho đến tri
giả kiến, kiến giả kiến, chấp không rồi khởi lên đoạn kiến, chấp có, rồi khởi
lên thường kiến, xa lìa Thánh hiền, gần gũi phàm phu, nương người phá giới,
thân gần bạn ác, xa lìa bạn lành, pháp thâm sâu nghe rồi sanh tâm hủy báng.
Thân làm việc ác luật nghi, lời nói ác, tâm nịnh hót, quanh co, bị phiền não
che lấp, tham đắm lợi dưỡng, phát sanh đủ 5 mạn:
1. Khinh mạn vì dòng họ cao quí.
2. Khinh mạn vì dòng họ giàu sang.
3. Khinh mạn vì hiểu biết hơn người.
4. Khinh mạn về quốc độ.
5. Khinh mạn về đồ chúng.
Thấy việc ác liền giúp sức, gặp việc
thiện lại tránh xa, khen ngợi sắc đẹp của đàn bà, con nít, ngoại đạo, không ưa
tu tập hạnh A lan nhã, không biết ăn uống đúng lúc, tuy có đọc tụng mà chẳng đúng
thời, xa lìa Sư trưởng, thấy việc thiện không tôn trọng, thấy việc ác không sợ
hãi, như voi không có móc, ngựa không dây cương, buông lung chẳng chế ngự được,
ưa sân giận, không có từ tâm, thấy người khổ không thương, gặp người bệnh không
thăm hỏi, gặp người chết không lo sợ, như sống trong đống lửa mà không mong cầu
ra khỏi, việc đáng làm không làm, việc không đáng làm lại làm, việc không đáng
suy nghĩ thì suy nghĩ, việc đáng suy nghĩ thì không suy nghĩ, việc chẳng mong
cầu thì cầu, không ra khỏi bảo đã ra khỏi, chẳng phải đạo gọi là đạo, chưa
chứng đắc cho là chứng đắc, ưa huân tập việc đại ác, xa lìa điều thiện lớn, hủy
báng Đại thừa và người hành Đại thừa, khen ngợi Tiểu thừa và người học Tiểu
thừa, ưa nói lời thô ác, làm loạn, đấu tranh, tâm không từ bi làm cho người
khác phải khiếp sợ, nói lời thô bỉ không có một chút chơn thật, say mê theo hý
luận không thể bỏ được. Các việc như vậy gọi là pháp chướng ngại điều thiện.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật tu tập hạnh Không, diệt pháp hý luận, suy nghĩ: Cảnh
giới sở quán đều Không, tâm năng quán cũng chẳng có, không có hai loại sai khác
về năng quán, sở quán. Các pháp nhất tướng còn gọi vô tướng, suy nghĩ như thế
thì không còn giữ tướng trong ngoài, không thấy thân không thấy tâm cũng không
thấy pháp, liên tiếp tu tập chỉ quán theo thứ lớp. Quán như vậy gọi là như thật
thấy pháp. Chỉ là nhất tâm bất loạn. Bồ
tát tu quán hạnh như thế rồi liền được tịnh giới. Vì giới thanh tịnh nên hạnh
cũng thanh tịnh. Đây là quán hạnh thanh tịnh của Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la
mật.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, hộ trì pháp tạng vô thượng của Như Lai, nhận lãnh
chánh pháp. Vì hộ pháp chứ không vì lợi dưỡng, vì để cho hạt giống Tam bảo
không đoạn tuyệt chứ không phải vì sự cung kính. Vì muốn hộ trì hạnh Đại thừa
chứ không vì danh vọng, làm chỗ nương tựa cho người không có chỗ nương tựa, cứu
giúp cho người không được cứu giúp, an lạc người không an lạc, làm cho người
không có tuệ nhãn được tuệ nhãn, chỉ đạo
Thanh văn cho người tu Tiểu thừa, chỉ đạo Độc giác cho người tu trung thừa, chỉ
đạo Vô thượng cho người tu Đại thừa. Nghe pháp như vậy là Vô thượng trí,
suốt đời sẽ không nhầm lẫn Thừa thấp kém.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát
nhã Ba la mật, biết rõ hoàn toàn các pháp Tỳ nại da khác nhau. Đó là Tỳ nại da,
Tỳ nại da hạnh, Tỳ nại da sâu xa, Tỳ nại da vi tế, tịnh cùng bất tịnh, có lỗi
không lỗi, giới bổn biệt giải thoát, Tỳ nại da Thanh văn, Tỳ nại da Bồ tát. Các
Bồ tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với các pháp Tỳ nại da như thế đều
thấy biết rõ.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, biết rõ tất cả oai nghi giới hạnh, khéo học hỏi thọ trì giới hạnh của
Thanh văn, Độc giác, Bồ tát. Đã tu giới hạnh rồi, nếu thấy oai nghi nào không đúng ý mọi người thì Bồ tát từ bỏ ngay.
Sa môn nào có oai nghi giới hạnh đầy đủ thanh tịnh thì gần gũi họ. Nếu Bà la
môn học các hạnh khác thì bảo họ xa lìa, khuyến khích họ tu Tỳ nại da. Tu tập
giới hạnh thanh tịnh như vậy nên diệt sạch tâm xảo trá, tật đố. Tự hành hạnh bố
thí cũng khuyên người làm theo. Tán thán hạnh bố thí làm cho người học theo,
thấy người bố thí sanh tâm tùy hỷ, không có ý niệm nên bố thí cho ta đừng bố
thí cho ai khác. Chỉ nên suy nghĩ: Đa số hữu tình đều bị nghèo thiếu, đói lạnh,
khốn khổ, nguyện cho họ đời này được an vui, vì nghe chánh pháp nên đời sau an
vui. Đời này ta phải siêng năng tu tập. Ta nguyện cùng hữu tình đều được giải
thoát. Đây là Bồ tát không có tâm tật đố, tâm luôn bình đẳng đối với các hữu
tình. Nên hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã cho đến
Nhất thiết tướng trí, đều khắp vì tất cả hữu tình không tu hai tâm (phân biệt). Vì sao? Vì pháp được tu là
cảnh giới của cộng niệm chúng sinh, khiến mau giải thoát, tự mình thoát ra khỏi
lửa sanh tử thì nguyện cho hữu tình cũng được ra khỏi.
Này Thiên vương! Ví như trưởng giả
có sáu người con nhỏ dại ông đều yêu thương không có phân biệt. Trưởng giả ở
ngoài thấy nhà bị cháy. Ý ngươi nghĩ sao? Có thấy trưởng giả suy nghĩ thế này
không: “Đối với sáu đứa con kia, ta cứu đứa nào trước, đứa nào sau?”
- Bạch Thế Tôn! Không nên như vậy.
Vì sao? Vì người cha luôn đem tâm bình đẳng đối với con cái.
- Thiên vương nên biết: Bồ tát cũng
vậy, vì những kẻ ngu si tham đắm trong sáu đường, đang ở trong nhà lửa sanh tử
không biết đường ra, nên các Bồ tát đem tâm bình đẳng dùng mọi phương tiện
hướng dẫn họ thoát ra, để được an ổn trong cõi tịch tịnh.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với các pháp cũng bình đẳng; vì hộ chánh pháp
cúng dường Như Lai, dùng đầy đủ các thứ để cúng dường Như Lai, như thật tu hành
để cúng dường Như Lai, làm lợi ích an lạc hữu tình để cúng dường Như Lai, giữ
gìn thiện pháp của hữu tình để cúng dường Như Lai. Tùy thuận giáo hóa, hướng
dẫn hữu tình, hành Bồ tát đạo, việc làm đi đôi với lời nói, tâm mong cầu Vô
thượng giác không hề mỏi mệt, làm như thế mới gọi là cúng dường chư Phật, chẳng
phải đem của cải mới gọi là cúng dường. Vì sao? Vì pháp là thân Phật. Nếu cúng dường pháp tức là cúng dường Phật.
Chư Phật Thế Tôn đều đến từ chỗ tu hành như thật, vì làm lợi ích an lạc cho hữu
tình, vì hộ trì thiện pháp tùy thuận hữu tình. Nếu chẳng làm như vậy là trái
với bổn nguyện, lười biếng giải đãi thì không thể thành tựu Bồ đề tâm. Vì sao?
Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của Bồ tát là của chung chúng sanh. Nếu
không có chúng sinh, Bồ tát làm thế nào có thể đắc Bồ đề.
Thiên vương nên biết: Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu hành chánh pháp cúng dường Như Lai gọi là chơn
cúng dường. Cúng dường như thế để diệt
tâm ngã mạn, xa lìa thế tục, cạo bỏ râu tóc, không còn liên hệ đến cha mẹ,
anh em, bà con nội ngoại, giống như người đã chết. Tướng trạng và y phục đều
khác người đời, dẹp tâm ngã mạn để ôm bình bát vào thành ấp, hoặc là bà con xóm
làng, hoặc là đến những nhà nghèo cùng để xin ăn, nghĩ: Mạng sống của ta tùy
thuộc vào người khác. Nhờ họ cho ăn, ta mới sống, do đó trừ được tâm ngã mạn.
Lại nghĩ: Ta nên hoan hỷ với tư tuởng của thầy bạn, vì xưa chưa được nghe pháp
mà nay được nghe. Nếu thấy người kia sân hận, tranh cãi, nên phải nhẫn nhục,
khiêm nhường tránh đi. Bồ tát như thế là trừ được tâm ngã mạn.
Thiên vương
nên biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thì sanh chánh tín bền
chắc. Vì sao? Vì các công đức và năng lực thiện căn đời trước đã đầy đủ nhân
lành, thành tựu chánh kiến, nội tâm thanh tịnh, không chạy theo cảnh bên ngoài,
tâm hạnh kiên cố chánh trực, không theo ngoại đạo, không có dối trá, các căn
thông lợi, đầy đủ Bát nhã Ba la mật, tâm được thanh tịnh, xa lìa triền cái, xa
bạn ác, gần bạn lành, học hỏi lời hay, tâm không giải đãi, nghe lời thuyết pháp
biết công đức Phật.
(Oai thần công đức của Như Lai)
Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:
- Cúi xin Đấng đại từ thương xót nói
cho chúng con nghe về tướng đại oai thần công đức của Như Lai.
Phật bảo Tối Thắng:
- Này Thiên vương! Ngươi hãy lắng
nghe và suy nghĩ. Ta sẽ nói một phần nhỏ
về oai thần công đức của Phật.
Tối Thắng bạch Phật:
- Xin Thế Tôn nói cho.
Phật dạy:
- Này Thiên vương! Đức đại từ của Như Lai vô biên, bao
trùm hết hữu tình và cảnh giới hữu tình, cho đến mười phương tận hư không giới
đều được bao trùm không thể so lường được. Đức
đại bi của Như Lai hàng Thanh văn, Độc giác và các Bồ tát đều không thể có
được. Vì sao? Vì pháp bất cộng cho nên không có một hữu tình nào ở mười phương
thế giới mà không được đức đại bi của Như Lai bao trùm. Pháp của Như Lai nói ra
rốt ráo không cùng tận. Vì các loài hữu tình khắp mười phương trải qua vô lượng
kiếp, đức Như Lai đã dùng vô lượng nhân duyên nói các pháp yếu cũng không cùng
tận. Nếu hữu tình dùng ngôn từ cú nghĩa để hỏi, thì chỉ trong một khảy móng tay
đức Như Lai vì tất cả hữu tình đều phân biệt rõ ràng mà không ai có thể bắt bẻ
được. Vì đức Như Lai đã đắc vô ngại tịnh lự ở cảnh giới thậm thâm không thể đo
lường. Giả sử hữu tình ở các thế giới đều trụ thập địa Bồ tát đến trăm ngàn
kiếp, nhập vào Đẳng trì thù thắng cũng không thể đo lường cảnh định của Như
Lai. Thân của Như Lai vô lượng, vô
biên. Vì sao? Vì tùy thuận tâm mong thấy của hữu tình nên chỉ trong một niệm
đức Như Lai có thể hiện vô lượng thân khác nhau. Thiên nhãn của Như Lai tối thắng thanh tịnh, đức Như Lai đều thấy
rõ các hữu tình ở tất cả thế giới với sắc tướng sai khác và các loại vật không đồng
nhau như xem trái xoài trong lòng bàn tay; những ai có thiên nhãn cũng không
thể sánh kịp. Thiên nhĩ của Như Lai
tối thắng thanh tịnh nên đối với âm thanh khác nhau của tất cả hữu tình và tất
cả âm thanh của các vật khác thì chỉ trong một niệm Như Lai đều nghe và hiểu rõ
ý nghĩa của nó. Tha tâm trí của Như Lai
thanh tịnh nên đối với mỗi suy nghĩ tạo nghiệp thọ quả khác nhau của hữu tình
cũng chỉ một niệm, trong bốn oai nghi Phật đều biết rõ. Vì sao? Vì Phật thường
ở trong định, không có tán loạn. (Q.568,
ĐBN)
Thiên vương nên biết: Phật không thất niệm(2), tâm không tán loạn, căn không duyên các
cảnh. Vì sao? Vì xa lìa tập quán phiền não nên thanh tịnh tối thượng, tịch
tịnh vô cấu. Người có phiền não, thất niệm, tán loạn, căn duyên các cảnh khác
nhau. Đức Như Lai đắc vô lậu loại trừ cấu bẩn, được tất cả pháp tự tại bình
đẳng, thường ở trong Đẳng trì và Đẳng chí nên Như Lai chỉ trụ một oai nghi, an
trú trong Đẳng trì cho đến nhập Niết bàn. Chư thiên v.v... còn chưa thể biết
được huống chi Như Lai đã trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô lượng, vô biên Đẳng
trì mà trời, người nào có thể biết được? Vì sao? Vì công đức của Như Lai không
thể đo lường, không thể nghĩ bàn, không thể quán sát.
Tối Thắng lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con nghe đức Như Lai
trải qua ba vô số kiếp tu hành mới thành Phật. Vì sao nay nói tu vô lượng kiếp?
Phật dạy:
- Này Thiên vương! Nghĩa ấy không
phải vậy. Vì sao? Vì Bồ tát hướng đến quả vị Chánh đẳng Bồ đề phải tu vô lượng
công đức mới được thành tựu, không phải trải qua chừng ấy kiếp số mà có thể
chứng nhập pháp lý bình đẳng, phải tu rốt ráo mới thành Phật.
Tối Thắng bạch Phật:
- Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn
đã nói hoàn toàn pháp cốt yếu để khuyên tất cả hữu tình phát sanh các căn lành,
xa lìa nghiệp chướng, muốn đạt quả Phật, tu Bồ tát hạnh. Nếu hữu tình nào được
nghe oai thần công đức của Như Lai mà sanh tâm hoan hỷ, khen ngợi, tin tưởng
thì nên biết hữu tình ấy sẽ mau thành tựu oai thần công đức như Phật, huống nữa
là thọ trì đọc tụng, biên chép, cúng dường, giảng giải cho người khác thì phước
đức của người ấy không thể nghĩ bàn.
Phật bảo:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Này
Thiên vương! Hữu tình kia được Như Lai hộ trì vì trải qua nhiều số kiếp mà
người đó đã gieo trồng căn lành, hoặc ở quá khứ đã cúng dường các đức Phật nên
mới được nghe oai thần công đức của Phật.
Thiên vương nên biết: Thiện nam,
thiện nữ nào tâm không nghi hoặc, trong bảy ngày tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới,
cúng dường hương hoa, nhất tâm chánh niệm như trước đã nói về oai thần công đức
của Phật, thì khi ấy Như Lai sẽ từ bi hộ niệm, hiện thân cho thấy, làm cho
nguyện được đầy đủ. Nếu thiếu hương hoa v.v... cúng dường mà chỉ nhất tâm niệm
công đức oai thần thì khi sắp qua đời sẽ được thấy Phật.
Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có hữu tình nào nghe
nói đại oai thần công đức của Như Lai như vậy mà không có lòng tin lại còn hủy
báng nữa không?
Phật dạy:
- Cũng có, nghĩa là có hữu tình nghe
nói pháp môn oai thần công đức của Như Lai như vậy sanh tâm sân hận, bất thiện
rồi hủy báng, tưởng pháp sư là bạn ác. Người ấy sau khi qua đời sẽ đọa địa ngục
chịu khổ nhiều kiếp. Nếu có hữu tình nghe nói đại oai thần và công đức của Như
Lai như vậy mà vui mừng, tin thọ, tán thán, ghi nhớ, tưởng pháp sư là bạn lành
thì sau khi qua đời được sanh lên trời, dần dần tiến lên thành Phật.
Bấy giờ, Thế Tôn hiện tướng lưỡi
rộng dài bao phủ khuôn mặt, cho đến đỉnh đầu rồi lại bao trùm khắp thân, kế đến
che tòa Sư tử, rồi che khắp đại chúng Bồ tát, đại chúng Thanh văn, sau đó mới
che Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế, nhơn phi nhơn v.v... Sau cùng Như Lai thu
tướng lưỡi và bảo đại chúng:
- Đức Như Lai có tướng lưỡi này
không thể nói lời dối trá. Trong đại chúng hôm nay, Ta đã nói ra điều gì các
ngươi đều nên tín thọ thì luôn được an vui.
Khi Phật thuyết pháp như vậy, ở
trong đại chúng có tám vạn bốn ngàn Bồ tát đắc Vô sanh pháp nhẫn, vô lượng hữu
tình xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, vô số hữu tình đều phát tâm
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
(1). A lan nhã (阿蘭若) Phạm: Araịya, Pāli: Araĩĩa. Còn gọi là A
luyện như, A luyện nhã, A lan na, A la nhưỡng, A lan noa. Nói tắt là Lan nhã,
Luyện nhã. Dịch là núi rừng, đồng hoang. Chỉ những nơi yên tĩnh vắng vẻ, thích
hợp với những người xuất gia tu hành để cư trú. Còn dịch là nơi xa lìa, nơi
vắng lặng, nơi rất thong thả, nơi không tranh giành. Tức là nơi vắng vẻ cách xa
làng mạc một câu lư xá, thích hợp cho người tu hành. Chỗ ấy, hoặc người ở nơi
ấy thì gọi là A lan nhã ca (Phạm: Àraịyaka). Cứ theo Tuệ uyển âm nghĩa quyển thượng
chép, thì A lan nhã có ba loại: 1. Đạt ma a lan nhã (Phạm: Dharma araịya), là
đạo tràng cầu Bồ đề. 2. Ma đăng già a lan nhã (Phạm: Màtaga-araịya), là nơi tha
ma hoặc là nơi cách xa làng mạc một câu lư xá, tức một quãng xa mà tiếng bò kêu
không nghe thấy. 3. Đàn đà già a lan nhã (Phạm: Daịđaka-araịya), tức nơi bãi
cát xa xôi không thấy khói của người ta đun nấu. Đến đời sau, tất cả chùa chiền
tinh xá đều gọi là A lan nhã, phần nhiều cách xa nơi phồn hoa đô hội, là những
chỗ yên tĩnh tiện cho người xuất gia tu hành, và người tại gia ra vào lễ bái.
Ngoài ra, các tỷ khưu tu hành mà thường xuyên ở nơi A lan nhã, thì gọi là A lan
nhã hạnh, là một trong mười hai hạnh đầu đà. [X. Luận Đại tỳ bà sa Q.136; Hữu
bộ tỳ nại da Q.24; Tát bà đa tỳ ni tỳ bà sa Q.5; Đại nhật kinh sớ Q.3; Câu xá
luận quang ký Q.13; Đại thừa nghĩa chương Q.15; Huyền ứng âm nghĩa Q.23]. Thích
nghĩa rồi, nay lặp lại để nhớ.
(2). Thất niệm (失念) Phạm: Musita-smftità. Cũng gọi Vọng niệm.
Đối lại: Niệm. Tên của tâm sở (tác dụng tâm), 1 trong 100 pháp. Chỉ cho tác dụng tâm không có khả năng ghi
nhớ rõ ràng cảnh sở duyên và các thiện pháp. Tông Duy thức coi Thất niệm là
1 trong 8 đại phiền não thuộc 20 phiền não. Về thể tính của Thất niệm thì có 3
thuyết: 1. Theo luận Đại thừa a tỳ đạt ma tạp tập quyển 1 thì Thất niệm lấy
Niệm làm thể, do đó, Thất niệm là một phần của Niệm. 2. Theo luận Du già sư địa
quyển 58 thì Thất niệm lấy đẳng lưu của Si làm thể, vì thế Thất niệm là một
phần của Si. 3. Tổng hợp 2 thuyết nói trên thì Thất niệm lấy một phần của Niệm
và Si làm thể.
Sơ giải:
1. Bồ tát trụ tâm như thế nào?
Bồ tát tu
hành Bát Nhã làm sao giữ tâm trong chánh niệm (nhiếp tâm trong chánh niệm)? Bồ
tát tu hành Bát Nhã thực hành bốn niệm trụ (thân, thọ, tâm, pháp) thì có thể
trụ tâm trong chánh niệm. Bốn niệm trụ đó còn gọi là Tứ Niệm Xứ, gồm có: 1- Thân Niệm Xứ: Quán thân bất tịnh; 2- Thọ
Niệm Xứ: Quán sự yêu ghét của cảm thọ hết thảy đều là khổ; 3- Tâm Niệm Xứ: Quán
tâm là sinh diệt, vô thường; 4- Pháp Niệm Xứ: Quán hết thảy pháp là vô ngã (tức
nói gọn là quán: Thân bất tịnh, Thọ thị khổ, Tâm vô thường và Pháp vô ngã). Nhờ
quán bốn pháp môn này mà Bồ tát có thể trụ tâm(cột tâm) vào một điểm, đề phòng
vọng tưởng tạp niệm để tâm đạt được tịch tĩnh, vắng lặng mà sanh huệ. Đó cũng
là phương tiện của tu thiền định
Hơn nữa Bồ
tát thường tu hạnh A lan nhã, nghĩa
là thích ở nơi vắng vẻ, tu phạm hạnh. Đối với các căn không phát sanh tội lỗi, xa
lìa ngã - ngã sở, không đắm trước thân, thường hành tịch tĩnh, thích hạnh đầu
đà, cơm hẩm sống qua ngày, áo rách cốt che thân. Chính luyện thân tâm như vậy,
nên Bồ tát mới có thể xa lìa phiền não sống an vui trong chánh định, đi đứng
nằm ngồi, năm thời sống trong rõ ràng thường biết!
Tâm Bồ tát ít muốn, biết đủ nên
chẳng cần tầm cầu, cất giữ, vì không cất giấu nên không sợ mất, vì không sợ mất
nên tránh được lo buồn, vì tránh lo buồn nên có thể xa lìa phiền não, vì lìa
phiền não nên không đắm trước, vì không đắm trước thì các lậu diệt tận.
Thiên vương nên biết: “Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, chỉ vì hộ
pháp chứ không vì lợi dưỡng, vì để cho hạt giống Tam bảo không đoạn tuyệt chứ
không phải vì sự cung kính, cúng dường. Vì làm chỗ nương tựa cho người không có
chỗ nương tựa, cứu giúp cho người không được cứu giúp, an lạc người không an
lạc, làm cho người không có tuệ nhãn được tuệ nhãn v.v...
Vì thế, các
đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thì sanh được chánh tín bền chắc”.
2. Oai thần công đức của Như Lai không thể kể hết.
Đức đại từ của Như Lai
vô biên, bao trùm hết hữu tình và cảnh giới hữu tình, cho đến mười phương tận
hư không không thể so lường. Đức đại bi
của Như Lai hàng Thanh văn, Độc giác và các Bồ tát đều không thể bì kịp. Thân của Như Lai vô lượng, vô biên. Vì
tùy thuận tâm mong cầu của hữu tình nên chỉ trong một niệm, đức Như Lai có thể
hiện vô lượng thân khác nhau cho bất cứ chúng sanh nào mong ước muốn diện kiến.
Các thần thông của Như Lai tối thắng
tối thượng thanh tịnh, không thể tưởng tượng, không thể nghĩ lường.
Rồi Phật
bảo:
“Thiên vương
nên biết: Phật không thất niệm, tâm không tán loạn, căn không duyên các cảnh.
Vì sao? Vì xa lìa tập quán phiền não nên thanh tịnh tối thượng, tịch tịnh vô
cấu. Đức Như Lai đắc vô lậu loại trừ cấu bẩn, được tất cả pháp tự tại bình đẳng,
thường ở trong Đẳng trì và Đẳng chí nên Như Lai chỉ trụ một oai nghi, an trú
trong Đẳng trì cho đến nhập Niết bàn. Chư thiên v.v... còn chưa thể biết được
huống chi Như Lai đã trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô lượng, vô biên Đẳng trì
mà trời, người nào có thể biết được? Vì sao? Vì công đức của Như Lai không thể
đo lường, không thể nghĩ bàn, không thể quán sát”.
Thế Tôn liền hiện tướng lưỡi dài rộng, trùm cả tam
thiên đại thiên, rồi bảo đại chúng:
- “Đức Như
Lai có tướng lưỡi này không thể nói lời dối trá. Trong đại chúng hôm nay, Ta đã
nói ra điều gì các ngươi đều nên tín thọ thì luôn được an vui”.
Nhờ tu các pháp môn nên chư Phật có đạo hạnh công đức,
các thần thông, các biện tài vô ngại vô bờ bến như thế. Đó là lời chân thật của
Thế Tôn, truyền lại cho những người con Phật. Vậy, cố gắng theo bước chân của
người xưa tự tu tập hành trì để giúp mình người được an vui giải thoát.
Hãy nghe Thế Tôn khuyến dẫn Thắng Thiên Vương khi xưa
cũng như chúng ta hôm nay:
“Thiên vương
nên biết: Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật tu tập hạnh Không, diệt
pháp hý luận, suy nghĩ: Cảnh giới sở quán đều Không, tâm năng quán cũng chẳng
có, không có hai loại sai khác về năng quán, sở quán. Các pháp nhất tướng còn
gọi vô tướng, suy nghĩ như thế thì không còn giữ tướng trong ngoài, không thấy
thân không thấy tâm cũng không thấy pháp, liên tiếp tu tập chỉ quán theo thứ
lớp. Quán như vậy gọi là như thật thấy pháp. Chỉ là nhất tâm bất loạn. Bồ tát tu quán hạnh như thế rồi liền được
tịnh giới. Vì giới thanh tịnh nên hạnh cũng thanh tịnh. Đây là quán hạnh thanh
tịnh của Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật”.
Phật bảo:“Trước hết là phải tu tập chỉ quán để được
tịnh giới. Giới thanh tịnh thì hạnh cũng thanh tịnh”. Trước đây Phật cũng bảo:
“Tu một pháp thì biết tất cả pháp. Pháp đó là Bát nhã Ba la mật”. “Tu một hạnh
thì được tất cả hạnh, thì thác cũng có thể sanh về cõi Phật”. Ở đây chỉ cần tu
hai pháp mà kết quả không thể ngờ huống chi tu hết Lục độ vạn hạnh?
Đây là bài pháp thiết thực nhất của đấng Từ Phụ dành
cho những người con Phật không kể Tăng hay Tục, phải chấp hành nghiêm chỉnh để
khỏi phụ lòng người Cha hiền của toàn thể nhân loại.
---o0o---