II. PHẨM “THIÊN ĐẾ”
Phần sau
quyển 556, Hội thứ V, ĐBN.
Tóm lược:
Khi ấy, trời Đế Thích cùng bốn vạn
Thiên tử đồng đến hội. Bốn Thiên Vương hộ thế cùng hai vạn Thiên tử đồng đến
hội. Đại Phạm Thiên Vương chủ cõi Sách ha cùng một vạn Phạm chúng đồng đến hội.
Lại có năm ngàn chúng trời Tịnh cư cũng đến dự. Nghiệp quả và ánh sáng nơi thân
của các chúng trời này ở trước oai quang của Phật đều không thể phát ra được. (Q.556, ĐBN)
Khi ấy, trời Đế Thích bạch Thiện
Hiện:
- Nay có vô lượng các Thiên tử muốn
nghe Đại đức tuyên thuyết chỉ dạy Bát nhã Ba la mật. Cúi xin Đại đức thương xót
chỉ dạy cho họ biết thế nào là Bồ tát nên
trụ Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện bảo Đế Thích:
- Tôi nương thần lực của Phật tuyên
thuyết chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các chúng trời chỗ nên an trụ của các Bồ
tát. Thiên tử các ông, người nào chưa phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề thì nay nên phát. Những vị đã nhập vào Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc
giác thì không thể phát tâm đại Bồ đề. Vì sao? Này Kiều thi ca! Vì những người
đó đối với giòng sanh tử đã lâu có hạn cách vậy. Trong đó nếu có vị nào phát
tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Kiều thi ca!
Vì các bậc thắng nhân nên cầu thắng pháp. Tôi trọn đối với phẩm loại thiện
thắng kia chẳng có trở ngại.
Thế Tôn khen Thiện Hiện:
- Lành thay! Lành thay! Ông khéo
khuyên bảo các Bồ tát.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Con đã biết ơn, sao lại không trả
ơn. Nghĩa là Phật và các đệ tử quá khứ đã dạy cho các Bồ tát nhiều loại pháp
yếu, muốn làm phương tiện thâm nhập Bát nhã Ba la mật. Bấy giờ, Như Lai cũng
học trong pháp đó, nay chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển vận bánh
xe diệu pháp, làm lợi ích cho chúng con, cho nên nay con y theo lời Phật dạy:
Bảo vệ, hộ niệm các Bồ tát này, làm cho mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, làm lợi ích an vui cho tất cả. Chính đó là
đáp đền ơn đức kia.
Khi ấy, Thiện Hiện bảo với Đế Thích:
- Chư Thiên các ông nên lắng nghe.
Ta sẽ nói về tướng đáng trụ Bát Nhã của các chúng Bồ tát cho các ông.
Kiều thi ca! Các chúng Bồ tát bằng
đại thệ trang nghiêm, hướng thẳng đến Đại thừa thì nên dùng tướng Không để an trụ Bát nhã Ba la mật; không nên trụ sắc,
cũng không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ quả Dự lưu, cũng không
nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Cũng không nên trụ
đây là sắc. Cũng không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ đây
là quả Dự lưu, cũng không nên trụ đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc
giác Bồ đề. Không nên trụ sắc, thọ,
tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc khổ hoặc vui, hoặc ngã hoặc
vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không.
Không nên trụ quả Dự lưu cho đến Độc
giác Bồ đề đều là sự hiển bày vô vi, là phước điền chơn thật đáng thọ nhận cúng
dường. Không nên trụ quả Dự lưu còn trở lại bảy lần cuối cùng, chắc chắn sẽ
nhập Niết bàn. Không nên trụ quả Nhất lai chưa đạt đến Niết bàn, còn trở lại
cõi này một lần nữa, chắc chắn dứt sạch các khổ. Không nên trụ quả Bất hoàn
diệt độ ở cõi kia, không còn trở lại nữa. Không nên trụ quả A la hán ngay đời này
chắc chắn nhập vô dư Niết bàn. Không nên trụ quả Độc giác, vượt địa vị Thanh
văn, không đến địa vị Phật mà vào Niết bàn. Không nên trụ địa vị Phật, hiển bày
vô vi là ruộng phước chơn thật đáng thọ nhận sự cúng dường, vượt qua các địa vị
Thanh văn, Độc giác v.v... làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số hữu tình làm
cho nhập vào cảnh giới Vô dư Niết bàn. (Q.556,
ĐBN)
(Tất cả pháp đều như huyễn hóa kể cả Niết bàn)
Khi ấy, Xá lợi Tử nghĩ: Nếu như vậy
thì Bồ tát sẽ trụ ở đâu?
Thiện Hiện đọc được ý nghĩ trong tâm
Xá lợi Tử, liền bảo:
- Ý tôn giả thế nào? Tâm Như Lai trụ
ở chỗ nào?
Xá lợi Tử thưa Thiện Hiện:
- Tâm Như Lai là hoàn toàn không chỗ
trụ. Vì không trụ nên gọi là Như Lai. Nghĩa là không trụ cảnh giới hữu vi, cũng
không trụ cảnh giới vô vi, cũng không phải không trụ.
Thiện Hiện thưa:
- Bồ tát cũng vậy. Như các đức Như
Lai đối với tất cả pháp, tâm không trụ, cũng không phải không trụ. Nghĩa là các
Bồ tát đối với Bát Nhã sâu xa, dùng vô sở đắc để làm phương tiện. Nên trụ như
vậy, nên học như vậy.
Khi ấy, các Thiên tử thầm nghĩ: Tất
cả câu chú của các Dược xoa với vô số sai khác, mặc dù là bí nhiệm nhưng chúng
ta còn có thể biết, còn Đại đức Thiện Hiện đối với Bát Nhã sâu xa, tuy dùng vô
số lời lẽ để chỉ rõ nhưng chúng ta hoàn toàn chẳng hiểu được gì cả.
Đoán biết được ý nghĩ của chư Thiên,
cụ thọ Thiện Hiện bảo với họ:
- Tôi đối trong ấy không nói không
chỉ, các ngươi cũng chẳng nghe, đòi hiểu cái gì.
Khi ấy, các Thiên tử lại khởi nghĩ
này: Tôn giả Thiện Hiện đối trong nghĩa ấy muốn khiến dễ hiểu mà càng thêm sâu
sắc nhỏ nhiệm khó nổi so lường!
Biết được ý nghĩ của Thiên tử kia,
cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên tử:
- Có những người muốn chứng, muốn
trụ quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, bậc Độc giác và quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật thì cần phải nương vào nhẫn này mới có thể
chứng, mới có thể trụ được.
Các Thiên tử lại nghĩ: Đại đức Thiện
Hiện hôm nay muốn vì những hữu tình nào và tuyên thuyết những pháp gì?
Biết được ý nghĩ của các Thiên tử,
cụ thọ Thiện Hiện bảo với họ:
- Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn
thuyết pháp như huyễn. Người kia đối với sự giảng thuyết không nghe, không
hiểu, không chứng vậy.
Các Thiên tử lại nghĩ: Là người nghe
pháp và pháp như huyễn, hay là hữu tình và quả Dự lưu v.v... khác cũng đều như
huyễn cả?
Biết được ý nghĩ của Thiên tử nên
Thiện Hiện bảo với họ:
- Các loài hữu tình khác hoặc quả Dự
lưu, quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, A la hán, Độc giác, quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng đều như huyễn cả.
Khi ấy, chư Thiên hỏi Thiện Hiện:
- Chẳng lẽ sự chứng đắc quả vị Vô
thượng Bồ đề của các đức Như Lai cũng đều như huyễn sao?
Thiện hiện đáp:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Cho
đến Niết bàn cũng như huyễn.
Các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:
- Lẽ nào Niết bàn cũng như huyễn?
Thiện hiện bảo:
- Giả sử có pháp cao hơn Niết bàn
chăng nữa thì pháp ấy cũng lại như huyễn, huống là Niết bàn. Vì sao? Này các
Thiên tử! Vì huyễn cùng hữu tình và tất cả pháp cho đến Niết bàn không hai,
không riêng, đều bất khả đắc, bất khả thuyết vậy.
Khi ấy, Xá lợi Tử cùng Chấp Đại Tạng
Mãn Từ Tử, Đại Ẩm Quang v.v... hỏi Khánh Hỷ:
- Tư tưởng Bát Nhã sâu xa như vậy ai
là người có thể tin nhận được?
Khánh Hỷ thưa:
- Có các chúng Bồ tát Bất thối
chuyển, đối với sự thuyết Bát Nhã sâu xa này có thể tin nhận. Lại có vô lượng
hữu tình đầy đủ chánh kiến và các A la hán nguyện viên mãn đối với Bát Nhã sâu
xa… này cũng có thể tin nhận.
Khi ấy, Thiện Hiện thưa:
- Bát Nhã sâu xa được thuyết như
vậy, không ai có thể tin nhận được, là vì sao? Vì trong đây không có pháp để có
thể hiển bày, không có pháp để chỉ dạy, nên người tin nhận cũng bất khả đắc.
Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Tôn giả
Thiện Hiện rưới trận mưa pháp lớn. Ta nên hóa làm hương hoa vi diệu để dâng lên
cúng dường.
Nghĩ như vậy, liền hóa ra các hương
hoa vi diệu dâng lên Thiện Hiện. Khi ấy, Thiện Hiện nghĩ: Hoa này của chư Thiên
chưa từng thấy. Hoa nhiệm mầu này nhất định chẳng phải do đất, nước, cỏ cây
sanh ra được, mà chính là từ nơi tâm của chư Thiên hóa ra.
Biết tâm niệm của Thiện Hiện, trời
Đế Thích thưa với Thiện Hiện:
- Hoa này thật chẳng phải do đất,
nước, cỏ cây sanh ra; cũng chẳng phải từ tâm chư Thiên hóa ra; vì hoa đã rải
tánh không sanh vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:
- Hoa này không sanh thì không phải
hoa.
Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Tôn giả
Thiện Hiện trí tuệ rộng sâu, chẳng hoại giả danh mà nói thật nghĩa.
Nghĩ như vậy xong, bạch Thiện Hiện:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như
lời tôn giả dạy, các chúng Bồ tát đối với các pháp nên theo sự thuyết giảng của
tôn giả mà học.
Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, các chúng Bồ tát đối với
các pháp đều nên theo thuyết giảng của tôi mà học.
Kiều thi ca! Các chúng Bồ tát theo
lời tôi thuyết, khi học Bát Nhã sâu xa như vậy không học theo quả Dự lưu, không
học theo quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Không học theo Bồ đề của bậc Độc
giác. Nếu không học theo các bậc này thì chính là học Nhất thiết trí trí của
chư Phật. Nếu học Nhất thiết trí trí của chư Phật thì chính là học vô lượng, vô
biên Phật pháp. Nếu học vô lượng, vô biên Phật pháp thì chính là không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có
tăng giảm. Nếu không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có tăng giảm thì không
học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thủ
có xả. Nếu chẳng học sắc thọ tưởng hành thức, có thủ có xả, thời chẳng học
tất cả pháp có thể nhiếp thọ và có thể
hoại diệt. Nếu chẳng học tất cả pháp có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt,
chúng các Bồ tát khi học như thế gọi là chơn học Nhất thiết trí trí, chóng
chứng được Nhất thiết trí trí.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng:
- Nếu các Bồ tát chẳng học Nhất
thiết trí trí có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt, các Bồ tát này khi học như
thế gọi là chơn học Nhất thiết trí trí, chóng chứng được Nhất thiết trí trí ư?
Thiện hiện đáp:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện vậy.
(Bồ tát học Bát Nhã thẩm sâu nên cầu ở đâu?)
Trời Đế Thích hỏi Xá lợi Tử :
- Bồ tát học Bát Nhã sâu xa nên cầu
ở đâu?
Xá lợi Tử thưa:
- Bồ tát học Bát Nhã sâu xa nên cầu trong lời dạy của Ngài Thiện Hiện.
Trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:
- Nhờ thần lực của ai hộ trì mà Xá
lợi Tử nói được như thế?
Thiện hiện thưa:
- Nhờ thần lực của Như Lai hộ trì
nên khiến Xá lợi Tử nói được như vậy.
Trời Đế Thích hỏi:
- Lại thần lực của ai hộ trì mà tôn
giả có thể thuyết Bát Nhã sâu xa?
Thiện Hiện đáp:
- Nhờ thần lực của Như Lai hộ trì
nên khiến tôi có thể thuyết Bát Nhã sâu xa.
Kiều thi ca! Ông hỏi Bồ tát học Bát
Nhã sâu xa nên cầu ở đâu?
Kiều thi ca! Bồ tát học Bát Nhã sâu
xa không nên ngay nơi sắc cầu; không nên
lìa sắc cầu; không nên ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức cầu; không nên lìa
thọ, tưởng, hành, thức cầu. Vì sao? Vì sắc chẳng phải Bát nhã Ba la mật, cũng
chẳng phải lìa sắc riêng có Bát nhã Ba la mật. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng
phải Bát nhã Ba la mật; cũng chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức riêng có Bát
nhã Ba la mật.
Trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:
- Bát Nhã sâu xa là đại Ba la mật,
là vô lượng Ba la mật, là vô biên Ba la mật.
Thiện Hiện đáp:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì
sao? Này Kiều thi ca! Vì sắc vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Lại nữa, Kiều thi ca! Sở duyên vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Kiều thi ca! Thế nào là sở duyên vô
biên, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên? Nghĩa là biên giới trước,
giữa, sau của tất cả pháp đều bất khả đắc, nên nó là vô biên. Pháp vô biên nên
sở duyên vô biên. Do vậy nên Bát nhã Ba la mật này cũng nói là vô biên.
Lại nữa, Kiều thi ca! Tất cả pháp vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Kiều thi ca! Thế nào là tất cả pháp
vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên? Nghĩa là biên giới của
tất cả pháp không thể đạt. Vì sao? Vì biên giới trước, giữa, sau của sắc cho
đến thức đều không thể đạt. Do đó, biên giới trước, giữa, sau của Bát nhã Ba la
mật này cũng không thể đạt, nên nói vô biên.
Lại nữa, Kiều thi ca! Hữu tình vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Kiều thi ca! Thế nào là hữu tình vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên?
Kiều thi ca! Chẳng phải số lượng
loài hữu tình quá nhiều, không thể tính đếm được mà nói là vô biên.
Trời Đế Thích thưa:
- Vậy thì vì nghĩa gì nên nói như
vậy?
Thiện Hiện bảo:
- Nay tôi hỏi ông, tùy ý ông trả
lời. Ý ông thế nào? Hữu tình ấy thuộc pháp nghĩa nào?
Trời Đế Thích thưa:
- Nói hữu tình là chẳng thuộc pháp
nghĩa nào cả. Chỉ là sở nhiếp giả lập khách danh, sở nhiếp vô sự danh, sở nhiếp
vô duyên danh.
Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:
- Ý ông thế nào? Trong đây có hữu
tình chơn thật để có thể chỉ rõ chăng?
Trời Đế Thích thưa:
- Thưa không, bạch Đại Đức!
Thiện Hiện bảo:
- Vì hữu tình không thật để có thể chỉ rõ được nên nói là vô biên.
Kiều thi ca! Ý ông thế nào? Giả sử
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, dùng vô
biên âm thanh để nói vô lượng danh tự của loài hữu tình. Trong đây có hữu tình
chân thật có sanh có diệt không?
Trời Đế Thích thưa:
- Thưa không, bạch Đại đức! Vì sao?
Vì các hữu tình bản tánh thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện bảo:
- Do đây nên nói hữu tình vô biên,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Vì vô tánh thẳm sâu đều vô biên
vậy.
Sơ giải:
Phẩm “Thiên
Đế” của Hội thứ V này tương đương với hai phẩm là: “Thiên Đế” (từ Q.77 đến
Q.81) và “Chư Thiên Tử”(từ Q. 81 đến Q. 82) của Hội thứ I. Nếu Quý vị không nhớ
và không tự chiết giải được, thì xin quay lại tụng đọc hai phẩm của Hội thứ I
vậy.