XIII. PHẨM “ĐÀ
LA NI”(1).
Tiếp theo
phần giữa quyển 572, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương đương với phẩm 12: Đà La Ni, Kinh TTVBN)
Tóm lược:
Bấy giờ, đại Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi
liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quỳ
sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Như Lai
đã nói: Bồ tát được Đà la ni Chư pháp
bất nhập này, thành tựu công đức vô lượng vô biên.(2)
Phật bảo Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi:
- Thiện nam tử! Công đức như thế,
giả sử Như Lai nói trăm ngàn năm cũng chưa hết.
Khi ấy, trong chúng có vị Bồ tát tên
là Tịch Tĩnh Tuệ liền thưa với đại Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi:
- Nếu đại Bồ tát chứng được môn Đà
la ni này sẽ được đức Phật Thế Tôn khen ngợi. Bồ tát ấy được lợi lớn hoàn toàn,
tự hành, hóa độ đều chẳng luống uổng.
Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi bảo Bồ tát
Tịch Tĩnh Tuệ:
- Thiện nam tử! Trong thắng nghĩa đế
không pháp nào đáng khen vì không sắc không tướng. Không sắc không tướng thì có
gì đáng khen? Vì không có gì đáng khen nên không có cái để vui mừng.
Bồ tát Tịch Tĩnh Tuệ lại thưa:
- Tôi nghe trong Khế Kinh, Như Lai
nói: Tự tánh các pháp không có ngã, ngã sở, không thể làm cho vui cũng không
thể làm cho giận. Pháp bình đẳng này các Bồ tát cần nên học. Thí như đại địa
dựa vào Thủy luân, nếu đào ao giếng thì được nước để dùng. Những kẻ không đào
không do đâu mà có nước. Như vậy, cảnh
giới Thánh trí bình đẳng cùng khắp tất cả pháp. Nếu ai siêng năng tu Bát
Nhã liền được chứng đắc, còn người chẳng tu làm sao chứng được. Thế nên Bồ tát
mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì không nên biếng nhác. Nếu siêng
năng tinh tấn như đã nói thì cảnh bình đẳng của pháp sẽ hiện ra trước mắt. Như
người mù bẩm sanh không thể thấy màu sắc, hữu tình cũng vậy, bị phiền não làm
mù tối thì không thể thấy pháp bình đẳng. Như người có mắt nếu không có ánh
sáng bên ngoài thì không thể thấy hoàn toàn màu sắc, hình tượng đã có.
Cũng vậy, người tu hành tuy có trí
tuệ nhưng không có bạn tốt thì không thể thấy pháp. Còn như người có thiên nhãn
không nhờ ánh sáng ngoài, tự họ vẫn thấy được sắc. Cũng vậy, Bồ tát nào dự vào
dòng pháp thì tự nhiên thắng tiến. Ví như ở thế gian, thai nhi dần dần tăng
trưởng nhưng chẳng tự thấy. Cũng vậy, những Bồ tát siêng năng tinh tấn thì các
hạnh tăng trưởng dần, dù chẳng tự thấy mà được thành tựu tất cả Phật pháp. Như
trong núi Tuyết có cây thuốc ra quả mà thân cây, cành nhánh chẳng khô chẳng
gãy.
Cũng vậy, Bồ tát siêng tu tinh tấn
được bao nhiêu thắng hạnh đều không lui mất. Như vua Chuyển luân xuất hiện ở
đời đầy đủ bảy báu. Cũng vậy, Bồ tát phát tâm Bồ đề đầy đủ bảy pháp Bảo, là bố
thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo. Như
vua Chuyển luân dạo khắp bốn châu, tâm trải bình đẳng đến các loài hữu tình. (Q.572, ĐBN)
Cũng vậy, Bồ tát đem bốn Nhiếp sự
làm lợi ích cho hữu tình với tâm luôn bình đẳng. Như vua Chuyển luân dù ở chỗ
nào cũng không có sự tranh cãi, kiện tụng. Bồ tát như thật thuyết pháp cũng
không có sự tranh luận. Ví như tam thiên đại thiên thế giới lúc mới tạo thành
liền có núi Diệu Cao và biển lớn.
Cũng vậy, Bồ tát khi mới phát tâm
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề liền có Bát Nhã và tâm đại bi. Thí như lúc
mặt trời mọc, những chỗ núi cao được ánh sáng chiếu trước. Bồ tát cũng thế, nếu
được đuốc Bát Nhã thì các Bồ tát có hạnh thanh cao, các căn thuần thục sẽ được
ánh sáng chiếu trước. Ví như đại địa có thể gánh vác tất cả cỏ, cây, hoa quả,
thuốc thang thảy đều bình đẳng. Bồ tát cũng vậy, chứng được môn Đà la ni này
đối với các hữu tình tâm đều bình đẳng.
Bấy giờ, đức Phật khen ngợi Bồ tát
Tịch Tĩnh Tuệ:
- Hay thay! Hay thay! Như lời ngươi
nói: Các đại Bồ tát nếu đắc môn Đà la ni như vậy thì có nói ra lời gì dù một
câu một chữ cũng đều là lời Phật. Những lời đã nói ra này đều xa lìa sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vì sao? Vì pháp được nói ra đây chẳng phải thế
tục, nên vô cùng vô tận, có thể làm cho tất cả thân tâm nhẹ nhàng thoải mái.
Giả sử được nói trước trăm ngàn đức Phật cũng chẳng khiếp nhược. Vì sao? Vì đại
Bồ tát này được Phật gia trì, tâm không có sự chấp đắm, nghĩa là không đắm ngã,
không đắm hữu tình, không đắm các pháp. Do đó, chứng được pháp Như thanh tịnh, pháp giới thanh tịnh, thật tế thanh
tịnh, được pháp vô tận, văn tự vô tận, biện tài vô tận. Ngay khi ấy phát
sanh sự hoan hỷ thù thắng vì được diệu tuệ, vì được diệu trí, vì không còn lưới
nghi.
Lúc Phật nói môn Tổng trì này, có
tám ngàn Bồ tát đắc các pháp như vậy, thâm nhập môn Đà la ni. Lại có một vạn
hai ngàn Bồ tát đắc Bất thối chuyển. Năm ngàn Bồ tát đắc Vô sanh nhẫn. Một vạn
sáu ngàn chúng Thiên tử xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, vô lượng,
vô biên các loài hữu tình đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bấy giờ, Phật bảo Bồ tát Tịch Tĩnh
Tuệ:
- Đà la ni này có thể chinh phục các ma, đánh dẹp ngoại đạo, phá hoại
người ganh ghét pháp, thắp đèn Bát Nhã, dập tắt lửa phiền não, ủng hộ người
thuyết pháp đưa họ đến Niết bàn; điều phục nội tâm, khéo léo giáo hóa chúng
ngoài; dung nghi nghiêm chỉnh, người thấy vui mừng. Vì người chánh hạnh, bình
đẳng thuyết pháp. Như thật quán sát căn tánh hữu tình, truyền pháp đúng lúc
không trước, không sau. (Q.572, ĐBN)
Khi Phật nói các công đức như thế,
trong tam thiên đại thiên thế giới, tất cả biển cả, núi chúa Diệu Cao, đất
liền, các núi khác v.v... đều chấn động. Bấy giờ, trời rưới hoa Vi Diệu Âm, hoa
đại Vi Diệu Âm, hoa Diệu Linh Thụy, hoa đại Diệu Linh Thụy, hoa sen xanh, vàng,
đỏ, trắng, hoa Ca mạt la. Trong không trung, chư Thiên trổi các kỹ nhạc.
Đức Thế Tôn lại bảo Bồ tát Tịch Tĩnh
Tuệ:
- Thiện nam tử! Vô lượng, vô biên,
vô số kiếp không thể nghĩ bàn trong quá khứ có đức Phật ra đời tên là Bảo Nguyệt, đầy đủ mười hiệu, nước tên
Vô Hủy, kiếp tên Hỷ Tán. Đệ tử Thanh văn ba mươi hai ức. Đệ tử Bồ tát nhiều vô
lượng, vô biên. Nhưng đức Như Lai ấy trước đó không có khổ hạnh và hàng phục ma
mà chứng Bồ đề.
Khi ấy, trong chúng kia có một Bồ
tát tên Bảo Công Đức đủ biện tài kỳ diệu, có thể vì hữu
tình nói nhiều loại pháp. Bấy giời, các chúng thỉnh cầu đức Như Lai ấy đừng vào
Niết bàn, trụ lâu ở đời. Bảo Công Đức bảo đại chúng:
- Chư Phật Thế Tôn không sanh không
diệt, cần gì khuyến thỉnh chớ vào Niết bàn. Nếu hư không ấy vào Niết bàn thì
Như Lai mới có thể vào đại Niết bàn. Nếu có Như như, pháp giới, thật tế, cảnh
giới bất tư nghì vào Niết bàn thì Như Lai mới có thể vào đại Niết bàn. Vì sao?
Vì pháp của Như Lai không thành, không hoại, không nhiễm, không tịnh, chẳng
phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi;
chẳng phải thường, chẳng phải đoạn; giả sử một miệng mà có mười lưỡi, mỗi mỗi
lưỡi này lại sanh ra một trăm lưỡi, mỗi lưỡi này lại sanh ra ngàn lưỡi cũng
không thể nói Như Lai thành hay hoại, cho đến không thể nói có thường hay đoạn.
Vì sao đại chúng lại thỉnh cầu Như Lai trụ lâu ở đời chớ vào Niết bàn?
Khi Bồ tát Bảo Công Đức nói pháp ấy,
có tám vạn sáu ngàn các chúng Bồ tát được Bất thối chuyển. Bảy ngàn chúng đại
Bồ tát đều đắc môn Đà la ni và được vô biên công đức: Môn Đà la ni duyệt ý, Đà
la ni vô ngại, Đà la ni hoan hỷ, Đà la ni đại bi, Đà la ni nguyệt ái, Đà la ni
nguyệt quang, Đà la ni nhật ái, Đà la ni nhật quang, Đà la ni núi chúa Diệu
Cao, Đà la ni biển cả sâu rộng, Đà la ni công đức Bảo vương. Ba vạn sáu ngàn
đại chúng trời, người xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh.
Thế Tôn lại bảo Bồ tát Tịch Tĩnh
Tuệ:
- Bảo Công Đức ngày xưa nay chính là
ngươi. Do nhân duyên này ngươi mới có thể nói được các loại công đức của môn Đà
la ni.
Khi ấy, đại Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi
nói bài tụng:
Tổng trì như
thuốc hay,
Thường chữa
các bệnh mê.
Như cam lộ
trời kia,
Người được,
thường bất tử.
Đại Bồ tát Công Đức Hoa Vương lại nói
bài tụng:
Tổng trì
không văn tự,
Văn tự hiển
tổng trì.
Nhờ Bát Nhã
đại bi,
Rời lời,
văn, chữ, thuyết.
Bấy giờ, Thiên vương San Đổ Sử Đa
liền từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quì sát
đất, chấp tay cung kính thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Công đức của chư
Phật không thể nghĩ bàn. Những điều Phật nói không thể nghĩ bàn. Các đại Bồ tát
đã hành thắng hạnh, đã thuyết diệu pháp không thể nghĩ bàn. Chúng con và các
trời nhờ đời trước đã trồng căn lành sâu dày, được gặp Như Lai nghe thuyết diệu
pháp thâm sâu như vậy, nên đem vô lượng hương hoa tốt đẹp của trời rải dâng lên
cúng dường Như Lai.
Phật bảo Thiên vương:
- Thiên vương nên biết! Những người
muốn cúng dường Phật phải tu ba pháp:
Một là phát
Bồ đề tâm.
Hai là hộ
trì chánh pháp.
Ba là như
pháp tu hành.
Thiên vương nên biết! Nếu người nào
có thể tu học ba pháp này mới được gọi là chơn thật cúng dường Phật. Giả sử Như
Lai trụ đời một kiếp, nói về công đức đã đạt được nhờ sự cúng dường này cũng
không thể hết. Vì thế Thiên vương! Nếu ai muốn cúng dường đức Phật Thế Tôn mà
đủ ba pháp ấy gọi là chơn thật cúng dường.
Thiên vương nên biết! Nếu ai ủng hộ
đức Phật dù chỉ là một bài tụng bốn câu, thì tức là ủng hộ chư Phật quá khứ,
hiện tại, vị lai đã chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật Thế Tôn đã chứng là từ pháp sanh. Người cúng dường pháp gọi là chơn cúng
dường, là sự cúng dường đệ nhất, hơn hết trong các sự cúng dường, sự cúng dường
của cải chẳng thể sánh bằng.
Thiên vương nên biết! Ta nhớ về quá
khứ vô lượng, vô số kiếp không thể nghĩ bàn, khi tinh tấn siêng năng tu học Bồ
tát đạo, nghe chư Thiên trong hư không nói bài kệ:
Trời, người xa lìa kho báu lớn,
Giặc vua,
nước lửa đã mất đi,
Trăm ngàn
vạn kiếp khó nghe Pháp,
Được nghe
không giữ, mà lại cho.
Tâm đạo là
gốc, hóa chúng sinh;
Tu hành như
thật, tâm tịch tĩnh.
Tư lợi, lợi
tha tâm bình đẳng,
Đây mới gọi
chơn cúng dường Phật.
Thiên vương nên biết! Ở quá khứ khi
mới nghe bài tụng này ta liền nói cho người khác. Khi ấy, có tám ngàn các loài
hữu tình đồng phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thế nên Thiên vương
dùng pháp cúng dường là tối thắng đệ nhất. Vì sao? Vì quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề của chư Phật từ pháp mà sanh vậy.
Thích nghĩa:
(1). Đà la ni (陀羅尼) Phạm: Dhàranì. Cũng gọi Đà lân ni. Dịch là
Tổng trì, Năng trì, Năng già. Tức là sức trí tuệ có thể tóm thu, gìn giữ vô
lượng Phật pháp không để quên mất. Nói cách khác, Đà la ni là một thuật ghi
nhớ. Luận Đại trí độ quyển 5 và Phật địa kinh luận quyển 5 cho rằng, Đà la ni
là một phương pháp ghi nhớ, tức là trong một pháp nắm giữ tất cả pháp, trong
một lời nắm giữ tất cả lời, trong một nghĩa nắm giữ tất cả nghĩa; do đó, từ sự
ghi nhớ một pháp một lời một nghĩa ấy mà có thể liên tưởng đến hết thảy pháp,
tóm thu nắm giữ vô lượng Phật pháp không để mất mát. Đà la ni còn có năng lực
giữ gìn các pháp lành, ngăn ngừa các pháp ác. Vì Bồ tát lấy việc lợi tha làm
gốc, cần giáo hóa người khác nên phải chứng được Đà la ni, chứng được Đà la ni
mới không quên mất vô lượng Phật pháp, nhờ thế, khi ở giữa chỗ đông người mà
không sợ hãi, vẫn có thể nói pháp một cách tự do tự tại. Về Đà la ni do Bồ tát
chứng đắc, các kinh luận bàn đến rất nhiều. Đời sau, vì hình thức Đà la ni
giống như chú tụng nên lẫn lộn chú với Đà la ni, rồi gọi chung chú là Đà la ni.
Tuy nhiên, thông thường vẫn căn cứ theo câu chữ dài hay ngắn để phân biệt: Câu
dài là Đà la ni, câu ngắn là chân ngôn (chú), một hoặc hai chữ là chủng tử.
Theo luận Đại trí độ quyển 5, quyển 28, thì Đà la ni có bốn loại: 1. Văn trì đà
la ni: Người được Đà la ni đã nghe các pháp thì không quên nữa. 2. Phân biệt
tri đà la ni: Có năng lực phân biệt tất cả việc tà, chính, tốt, xấu. 3. Nhập âm
thanh đà la ni: Nghe tất cả âm thanh ngôn ngữ đều vui vẻ, không tức giận. 4. Tự
nhập môn đà la ni: Nghe 42 chữ cái như a, la, ba, giá, na v.v... có thể thấu
suốt thực tướng các pháp, bởi vì 42 chữ cái Tất đàm tóm thu tất cả ngôn ngữ. Ba
loại Đà la ni trước (1, 2, 3) gọi là Tam đà la ni. Luận Du già sư địa quyển 45
nêu ra bốn loại Đà la ni: 1. Pháp đà la ni: Có khả năng ghi nhớ các câu kinh
không quên. 2. Nghĩa đà la ni: Có thể hiểu nghĩa kinh không quên. 3. Chú đà la
ni: Nương vào sức thiền định mà phát khởi chú thuật để tiêu trừ tai ách cho
chúng sinh. 4. Nhẫn đà la ni: Thông suốt thực tướng các pháp vốn lìa nói năng,
an trụ nơi pháp tính không quên mất. Về phương pháp tu chứng bốn Đà la ni trên
đây đã được nói rõ trong Đại thừa nghĩa chương quyển 11. Tông Thiên thai căn cứ
theo nội dung của phẩm Phổ hiền Bồ tát khuyến phát trong Kinh Pháp Hoa mà lập
ba loại Đà la ni: Toàn đà la ni, Bách thiên vạn ức toàn đà la ni và Pháp âm
phương tiện đà la ni, rồi đem phối với ba pháp quán Không, Giả, Trung. Chú cũng
gọi là Đà la ni. Bộ phận ghi chép các chú trong ba tạng, gọi là Đà la ni tạng,
một trong năm tạng. Ngoài ra, trong Mật giáo, pháp hội cúng dường Tổ sư hoặc
cầu siêu cho các vong linh tụng trì đà la ni Tôn thắng, gọi là Đà la ni hội, Đà
la ni giảng hội. [X. Kinh Hiền Ngu Q.10 phẩm A nan tổng trì; Kinh Đại Bảo Tích
Q.4 hội Vô thượng đà la ni, Q.115 hội Vô tận bồ tát; kinh Hải long vương Q.2
phẩm Tổng trì môn; Tổng thích đà la ni nghĩa tán; Tuệ uyển âm nghĩa Q.1]- Phật
Quang Tự điển.
(2). Đoạn Kinh ở phẩm “Hiện Hóa”, nói: “Vì
pháp lìa ngôn ngữ, cũng lìa nghĩ lường, từ xưa đến nay không sanh không diệt, nên
không vào ra. Đó gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập”.
Lưu ý:
Định nghĩa
Đà la ni của Phật Quang từ điển nói trên cho chúng ta biết sự mầu nhiệm của nó.
Đó là những chữ, những câu hết sức thần bí, đầy huyền lực gọi là các mantra
(magical words) có thể giữ gìn tất cả Phật pháp đồng thời có thể ngăn chận các
pháp ác.
Lược giải:
Trong phẩm
này Phật có giới thiệu một loại Đà la ni tên là “Đà la ni Chư pháp bất nhập”, thành tựu công đức vô lượng vô biên mà theo Như Lai:
“Giả sử nói trăm ngàn năm cũng chưa hết”. Tu chưa tới, chỉ biết như vậy thì hay
như vậy, đừng bàn ra tán vào hay khen chê mà mang khẩu nghiệp, không tốt!
Chúng tôi không biết nhiều về Đà la ni, nên không lược
giải phẩm này, Quý vị hãy tự học tự chứng. Về sự diệu
dụng và thần bí của pháp môn này, chúng ta có thể lấy câu nói của Phật bảo Bồ tát Tịch Tĩnh Tuệ làm châm ngôn:
- “Đà la ni này có thể chinh phục các ma, đánh dẹp ngoại đạo, phá hoại
người ganh ghét pháp, thắp đèn Bát Nhã, dập tắt lửa phiền não, ủng hộ người
thuyết pháp đưa họ đến Niết bàn; điều phục nội tâm, khéo léo giáo hóa chúng
ngoại; dung nghi nghiêm chỉnh, người thấy vui mừng. Vì người chánh hạnh, bình
đẳng thuyết pháp. Như thật quán sát căn tánh hữu tình, truyền pháp đúng lúc
không trước, không sau”.
---o0o---